Thứ Tư, 25 tháng 2, 2009

Ngày VH các dân tộc Việt Nam_19.4.2009



Bộ VHTTDL: Thông qua kế hoạch thực hiện “Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam” năm 2009
(Cinet) - Vừa qua, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL) đã thông qua kế hoạch thực hiện “Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam” năm 2009, sẽ diễn ra tại Làng Văn hóa- Du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội, theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Mục đích nhằm giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm, niềm tự hào về việc gìn giữ và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, góp phần củng cố, thắt chặt, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tôn vinh bản sắc văn hóa các dân tộc Việt Nam vì một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; tuyên truyền, vận động làm cho các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam hiểu về nhau hơn, gần gũi, quý trọng và hòa hợp nhau hơn, thu hẹp khoảng cách, xoá bỏ rào cản, tương hỗ cùng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; góp phần phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế- xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Các dân tộc nỗ lực cùng nhau phấn đấu thoát nghèo nàn, lạc hậu, phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước có vai trò và vị thế trong bối cảnh toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức.
Nhiệm vụ chủ yếu để thực hiện kế hoạch “Ngày hội Văn hóa các dân tộc Việt Nam” tập trung bốn mảng lớn sau:
Một là, tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục, quảng bá giúp các dân tộc- đa số và thiểu số hiểu về nhau hơn, gần gũi nhau hơn, quý trọng nhau, tăng cường tình đoàn kết các dân tộc Việt Nam trong cả nước và ở từng vùng, từng địa phương, nâng cao ý thức tôn trọng, tương trợ giúp nhau về mọi mặt, nhằm khơi dậy trong lòng đồng bào các dân tộc ý thức tự giác, lòng tự hào, trách nhiệm của dân tộc mình trong ngày tôn vinh văn hóa các dân tộc Việt Nam, vì một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, quảng bá hình ảnh và nền văn hóa của các dân tộc với cả nước và bạn bè quốc tế. Các hoạt động chính trong công tác tuyên truyền giáo dục, quảng bá như: Tổ chức các cuộc thi, các buổi nói chuyện chuyên đề cho mọi đối tượng, chú trọng tới thanh, thiếu niên và đồng bào các dân tộc thiểu số. Tăng cường tổ chức phục vụ sách lưu động tới vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; xuất bản sách song ngữ bằng tiếng dân tộc- tiếng Kinh để tăng cường tủ sách cho các thư viện công cộng và các tủ sách văn hóa dân tộc ở cơ sở. Lồng ghép với nội dung Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” và các hoạt động, phong trào khác. Tập trung công tác tuyên truyền, giáo dục ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề văn hóa dân tộc nói chung và “Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam” để hưởng ứng Lễ công bố ngày 19/4/2009. Song song với tuyên truyền giáo dục, cần đẩy mạnh công tác thông tin, quảng bá giới thiệu hình ảnh, nét đặc sắc về giáo dục, văn hóa, kinh tế, xã hội của các dân tộc Việt Nam ở trong và ngoài nước. Hình thành bộ hình ảnh, tài liệu về 54 dân tộc Việt Nam; tổ chức các ngày phim, đợt phim về văn hóa 54 dân tộc…
Hai là, tổ chức các hoạt động cổ vũ và việc làm thực tế để phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo, lao động sản xuất, văn hóa, y tế, xóa đói giảm nghèo, sáng tạo văn học nghệ thuật. Cổ vũ và phát triển hoạt động văn hóa như: trân trọng, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc, tăng cường giao lưu văn hóa, có biện pháp phù hợp hạn chế những tác động xấu của văn hóa ngoại lai. Cổ vũ phát triển giáo dục đào tạo với tinh thần đào tạo nhân lực cho các dân tộc để đồng bào dân tộc có năng lực lao động trong các ngành nghề thuộc lĩnh vực công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nền kinh tế tri thức. Cổ vũ và phát triển kinh tế theo các mô hình, đặc biệt chú trọng kinh tế hộ gia đình theo ba định hướng ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, phát triển ngành nghề mới phù hợp và phát triển quy mô mới tương thích. Cổ vũ và phát triển hoạt động y tế, chăm lo công tác y tế ở tuyến cơ sở, đặc biệt với đồng bào các dân tộc, tập trung các hoạt động hướng dẫn cách ăn ở hợp vệ sinh, phòng chống bệnh tật. Động viên cổ vũ sáng tạo văn học, nghệ thuật; tập hợp, bình chọn các tác phẩm xuất sắc, biểu dương các sáng tác văn học nghệ thuật về chủ đề lao động sản xuất, văn hóa dân tộc…
Ba là, tổ chức các hoạt động thiết thực cơ sở tại các thôn, làng, bản, ấp… gắn tinh thần đoàn kết, bình đẳng, tôn trọng giữa các dân tộc, cùng giúp nhau tiến bộ trong mọi mặt, đặc biệt là xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, giáo dục, y tế, văn hóa. Các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể ở địa phương nhân “Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam” năm 2009 tổ chức họp đánh giá những công việc đã thực hiện chính sách văn hóa dân tộc ở địa phương; lựa chọn một chủ đề hay một công việc có tính cấp thiết, thực tế để tập trung giải quyết bằng được. Bình chọn những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong thực hiện chính sách văn hóa dân tộc ở địa phương để biểu dương, tôn vinh, khích lệ…
Các hoạt động ở Trung ương được tổ chức theo chuyên đề, chủ đề thiết thực có sự kết nối nhất định với các địa phương để tạo thành chuỗi các hoạt động như lễ tôn vinh, hội nghị các nhân sỹ, trí thức, già làng, trưởng bản, nghệ nhân, các nhà khoa học, văn nghệ sỹ…Các hoạt động, sự kiện được tổ chức trong năm có chủ đề của năm 2009 và phù hợp với nhóm vấn đề và vấn đề lớn của 3 năm, 5 năm tạo thành chuỗi tương hỗ, gắn kết, liên hoàn giữa chúng với nhau và giữa địa phương với Trung ương.
Trước mắt, trong năm 2009 tổ chức công tác tuyên truyền giáo dục, quảng bá về “Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam” hướng tới Lễ công bố vào ngày 19/4/2009; phát động, tìm kiếm, tôn vinh các sáng tạo, giải pháp hữu ích về khoa học và công nghệ; giáo dục và đào tạo; phát triển kinh tế áp dụng cho vùng đồng bào các dân tộc, đặc biệt là các dân tộc thiểu số. Sưu tầm và hoàn thành bộ tư liệu quảng bá giới thiệu về 54 dân tộc Việt Nam. Mở trang web về các chương trình hoạt động “Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam”. Tổ chức hội nghị các nhân sỹ, trí thức, già làng, trưởng bản, nghệ nhân, các nhà khoa học, văn nghệ sỹ…

Trong Quyết định số 1668/QĐ-TTg ban hành ngày 17/11/2008, Thủ tướng Chính phủ nêu rõ việc xác lập "Ngày Văn hoá các dân tộc Việt Nam" hàng năm nhằm mục tiêu sau:
1. Giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm, niềm tự hào về việc giữ gìn và phát huy truyền thống văn hoá dân tộc, góp phần củng cố, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc;
2. Tôn vinh bản sắc văn hoá các dân tộc vì một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc;
3. Tuyên truyền, vận động làm cho các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam hiểu về nhau, gần gũi, quí trọng và hoà hợp nhau hơn, tương hỗ cùng phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội;
4. Góp phần phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc.
Việc tổ chức "Ngày Văn hoá các dân tộc Việt Nam" hàng năm phải đảm bảo các yêu cầu sau đây:
1. Thiết thực, tiết kiệm, không phô trương lãng phí, đồng thời phải phong phú, đa dạng, ấn tượng, giàu bản sắc văn hoá dân tộc, gắn với chương trình phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng, xoá đói giảm nghèo của vùng miền, địa phương;
2. Đảm bảo nội dung hoạt động trọng tâm có chương trình mục tiêu cụ thể, kết nối với các hoạt động, chương trình của quốc gia, vùng miền địa phương;
3. Các hoạt động, việc làm phải xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng thực tế của bà con các dân tộc ở cơ sở, không áp đặt, phải tôn trọng phong tục tập quán của các dân tộc; thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia;
4. Ưu tiên các chương trình, hoạt động, việc làm thiết thực với đồng bào các dân tộc, đặc biệt là các dân tộc thiểu số, tập trung cho công tác truyền thông.
Bộ Văn hoá- Thể thao và Du lịch chủ trì, chỉ đạo thực hiện "Ngày Văn hoá các dân tộc Việt Nam".

Thứ Hai, 23 tháng 2, 2009

Lễ đầy tháng

Lễ đầy tháng, lễ thôi nôi là nét đẹp của văn hoá truyền thống.
1. Lễ đầy tháng (Lễ cúng Mụ)

Trong ngày đầy tháng, ngoài việc chuẩn bị món ăn, thức uống dùng để chiêu đãi khách, gia chủ còn chuẩn bị mâm lễ vật cúng kính 12 Mụ bà gồm 12 chén chè, 3 tô chè, 3 đĩa xôi và một mâm cúng kính 3 Đức ông gồm con vịt tréo cánh được luộc chín, 3 chén cháo và 1 tô cháo...

Việc tổ chức Lễ đầy tháng trước là tạ ơn Mụ bà không chỉ nặn ra đứa trẻ, mà còn phù trợ cho “mẹ tròn con vuông”, sau là để trình với nội - ngoại, họ hàng, lối xóm về đứa cháu sau một tháng chào đời - nhưng ít ai nhìn thấy (cả mẹ và con). Đây như là chứng nhận của xã hội về sự tồn tại của một con người, để được nâng niu, chúc tụng, để cộng đồng có trách nhiệm giúp đỡ, cưu mang, che chở...

12 ch
én chè cúng 12 Mụ bà gồm:

- Mụ
bà Trần Tứ Nương, coi việc sanh đẻ (chú sanh)

- Mụ bà Vạn Tứ Nương, coi việc thai nghén (chuyển sanh)

- Mụ bà Lâm Cửu Nương, coi việc thụ thai (thủ thai)

- Mụ bà Lưu Thất Nương, coi việc nặn hình hài nam, nữ cho đứa bé.

- Mụ bà Lâm Nhất Nương, coi việc chăm sóc bào thai (an thai)

- Mụ bà Lý Đại Nương, coi việc chuyển dạ (chuyển sanh)

- Mụ bà Hứa Đại Nương, coi việc khai hoa nở nhụy (hộ sản)

- Mụ bà Cao Tứ Nương, coi việc ở cữ (dưỡng sanh)

- Mụ bà Tăng Ngũ Nương, coi việc chăm sóc trẻ sơ sinh (bảo tống)

- Mụ bà Mã Ngũ Nương, coi việc ẵm bồng con trẻ (tống tử)

- Mụ bà Trúc Ngũ Nương, coi việc giữ trẻ (bảo tử)

- Mụ bà Nguyễn Tam Nương, coi việc chứng kiến và giám sát việc sinh đẻ.

Ba Đức thầy bao gồm: Thánh sư, tổ sư và tiên sư có chức năng truyền dạy nghề nghiệp (không phải 13 đức thầy).

Sau khi bày lễ vật, một trưởng tộc hoặc người biết thực hành nghi lễ, thắp ba nén hương khấn nguyện: "Hôm nay, ngày (mùng)... tháng... (âl), ngày cháu (nội hay cháu ngoại...) họ, tên... tròn 1 tháng tuổi, gia đình chúng tôi bày mâm lễ vật này, cung thỉnh thập nhị mụ bà và tam đức ông trước về chứng minh nhận lễ, sau tiếp tục phù trợ cho cháu (tên...) mạnh tay, mạnh chân, mau lớn, hiền, ngoan, phù trợ cho gia đình an vui, hạnh phúc".

Sau nghi thức cúng kính là nghi thức khai hoa còn gọi là "bắt miếng". Đứa bé được đặt ngay trên bàn giữa, chủ lễ rót trà thấp hương xin phép bắt miếng. Xong, bồng đứa trẻ một tay, tay kia cầm một nhánh hoa điệp (có thể hoa khác) vừa quơ qua, quơ lại trên miệng cháu bé vừa dạy những lời tốt đẹp như sau:

Mở miệng ra cho có bông, có hoa,

Mở miệng ra cho kẻ thương, người nhớ,

Mở miệng ra cho có bạc, có tiền,

Mở miệng ra cho xóm giềng quý mến...

Tiếp sau là lời chúc mừng và tặng quà hoặc tiền lì xì của khách mời, của dòng họ bà con cho cháu bé và gia đình nhân ngày cháu tròn một tháng tuổi.

Theo Viện Nghiên Cứu Văn Hóa Việt Nam


Lễ cưới người Việt



Trước đây, người Việt gọi lễ này là lễ rước dâu. Ngày nay, trong ngôn từ của đời sống thường ngày, người ta gọi lễ này là lễ cưới (dịch theo tiếng Hán là hôn lễ). Đây là hình thức liên hoan, mừng hạnh phúc cô dâu, chú rễ và hai gia đình. Đây là nghi lễ được một số xã hội quan tâm và thường chỉ được tổ chức sau khi đã được chính quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Trong tâm thức người Việt thì lễ cưới có giá trị cao hơn cả giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Sự quan tâm lớn của xã hội vào buổi lễ này đôi khi gây sức ép lên những người tổ chức: họ phải đảm bảo để có thể làm hài lòng nhiều người tham dự.

Lễ cưới của người Việt có nhiều thủ tục gồm:

  • Lễ xin dâu
  • Lễ rước dâu
  • Tiệc cưới
  • Lại mặt

Cũng đã có những nỗ lực nhằm sáng tạo một biểu trưng cưới hỏi ở Việt Nam như đôi chim bồ câu, quả cau lá trầu, song biểu trưng thường gặp, cô đúc nhất về ngữ nghĩa trong lễ cưới ở Việt Nam xưa nay vẫn là chữ song hỷ. Đây là biểu trưng xuất xứ từ phong tục cưới hỏi Trung Quốc, với ý nghĩa trước kia thể hiện hai niềm vui lớn: đại đăng khoa (thi đỗ làm quan) và tiểu đăng khoa (cưới vợ), nay song hỉ biểu thị niềm vui chung của hai họ. Nhiều người Việt không hiểu chữ Hán nhìn vào chữ này cũng biết những nơi dán biểu trưng này đang có đám cưới.

Trong lễ cưới Việt Nam, những người tham dự thường đem tặng các đồ mừng đám cưới. Quà cưới thường trang trọng, được bọc giấy điều. Trong đám cưới, ban lễ tân (thường là người thân) đứng ra nhận quà mừng. Có những đám cưới tổ chức tiệc trà, đơn giản hơn tiệc cưới thông thường, có ý không yêu cầu người tham dự mang quà mừng.

Trong cuộc sống hiện đại, nhiều đôi dâu rể còn thường chụo ảnh kỷ niệm trước lễ cưới tại các ảnh viện hoặc chụp ngoại cảnh. Trong đám cưới thì thường chụp ảnh và quay phim.

Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%85_c%C6%B0%E1%BB%9Bi

Lễ tang người Việt

Cũng như mọi hiện tượng văn hoá khác, tang ma với những nghi lễ, phong tục gắn liền với nhận thức, tín ngưỡng tôn giáo của cộng đồng tộc người có những biến đổi theo những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định.
* Tục lệ tang ma chung và một số địa phương
Phong tục lễ tang của người Việt nhiều thế kỷ qua thường được vận dụng theo tổng kết của Thọ Mai gia lễ, gồm hàng loạt các nghi lễ thể hiện qua từng thời đoạn: từ giờ phút lâm chung (đặt tên hèm, hú hồn, tắm rửa, thay y phục, ngậm gạo, tiền…), chuẩn bị quan tài (trừ tà , phạt mộc, khâm niệm - nhập quan, kê quan tài - thiết linh sàng…); phát tang (mặc đồ tang – thành phục cúng cơm – triêu tịch diện), đến chuyển cữu, yết tổ, trị huyệt, hạ huyệt…
Trên thực tế chỉ có những gia đình Nho gia, quan chức, giàu có mới có những điều kiện (từ vật chất, thời gian…) thực hiện đủ theo quy chế này. Chẳng hạn theo gia phả của dòng họ Vũ (An Cự, Vụ Bản) chép trường hợp đám ma của Kim tửu vinh lộc đại phu Phụ quốc Thượng tướng quân, Trung quân đô đốc Luân quận công. Ông mất ngày 19-12-1698, thọ 81 tuổi mà đến ngày 11-2-1699, mới “rước quan tài xuống thuyền”. “Quan quân hộ tống có đến 2.417 người, 20 thuyền lớn nhỏ, riêng xã An Cự có 120 đô tuỳ”. Ngày 14-2, đến bến sông “dân các xã 10 tổng thuộc huyện Thiên Bản chỉnh tề chiêng trống, cờ lọng, gậy hồng ra đón đông tới 1.465 người đều được mời cơm rượu, những người đánh chiêng trống cũng được chi tiền – Ngày 20 tháng 2 mới làm lễ an táng, ngay ngày hôm ấy làm lễ sơ ngu. Ngày 21-2 làm lễ tái ngu. Ngày 22-2, lễ tam ngu, ngày đó phân chia thịt rượu để đãi dân các xã, tổng trong huyện, không kể xã lớn, xã nhỏ, mỗi xã có một con trâu, lại đãi dân trong xã, tất cả già trẻ, trai gái cùng hào lý các xã đến phục dịch. Lại đãi các khách đến đưa tang, dự các lễ trăm ngày, tuần hè lễ Trung nguyên (rằm tháng bảy), tiểu tường (giỗ đầu), đại tường (giỗ hết tang) đều đãi cỗ chín, rượu thịt, không sơ suất, không điều tiếng gì”
Đối với đông đảo các thế hệ các gia đình bình dân ở làng xã, tuy thực hiện theo tinh thần của “gia lễ” trên nhưng có vận dụng chủ yếu cho phù hợp với gia cảnh và tục của làng.
Với người Việt, cái chết có phần đan xen (hay là không tách bạch) giữa phần đời thế tục với các tín niệm của cả Phật, Đạo, Nho (sau này có Thiên Chúa). Chết là mất (mất hết) về thể xác, và chết cũng là về, là bắt đầu (một cõi khác, kiếp khác) về với tổ tiên, ông bà, với Phật cảnh, tiên cảnh đầu thai sang kiếp khác. Nhận thức tâm lý ấy phản ánh khá rõ trong khá nhiều ngôn từ, trong các phong tục.
Coi cái chết là mãn kiếp, người già người chết là thác về, về với ông bà tổ tiên, là đi xa… Bản thân nhiều người có tuổi bình tĩnh, thanh thản chuẩn bị, đón nhận cái tất yếu này. Cỗ “hậu sự”, bộ đồ hải hội, mảnh đất để làm mồ - gọi là “nhà” được tự tay các cụ chuẩn bị lo sắm. Nhiều gia đình khi các cụ thượng thọ, đông cháu chắt thì tang ma còn được quan niệm làm làm “hội”, màu tang chế trắng, đen chìm đi trong khăn đỏ, khăn vàng.
Cái chết được coi là tiếp tục sống ở một cõi khác, là tiếp tục phần hồn nên con cái, gia đình không quên đặt “tên cúng cơm” để đến giỗ thì mời về. Gia đình sắm sửa cho người chết áo quần được coi là đẹp nhất, tươm tất nhất “sống mặc áo rách, chết chôn áo lành”, rồi gạo để ăn, tiền để đi đò (trong lễ Ngậm ngọc - phạn hàm).
Chết là kết thúc đối với cuộc đời thế tục, nên lễ tang lại là thể hiện cao nhất của xót thương, đau buồn. Với xã hội hàng nhiều thế kỷ chịu ảnh hưởng tư tưởng, thiết chế của đạo Nho, tang ma là dịp thể hiện tập trung, dễ nhận ra nhất (qua con mắt, dư luận, cộng đồng xã hội) của đạo hiếu. Con cái, người nhà muốn níu kéo trở lại bằng tục gọi ba hồn bảy vía từ nóc nhà để vang vọng thấu đến sâu xa, bốn hướng; phải chuyển hay biểu hiện tình cảm đó qua màu trắng, màu đen, mặc đồ tang bằng những xô, gai, bằng tiếng khóc tiếc thương, bằng tiếng kèn, tiếng trống, “sống dầu đèn, chết kèn trống”. Gia chủ phải dừng những việc vui, việc cưới, thi cử… trong thời kỳ tang trở.
Việc tang ma bao giờ cũng là dịp thể hiện tính cộng đồng, từ gia tộc, giáp, ngõ đến làng, xã. “Nghĩa tử là nghĩa tận”, những phúng viếng đỡ đần với gia chủ khi tang ma bối rối trở thành lẽ ứng xử bình thường, thành đạo lý của cư dân.
Tang ma dẫu vẫn được coi là gia lễ, nhưng trên thực tế không bao giờ thoát ly khỏi cộng đồng làng xã. Theo hương ước có niên đại thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX còn lại của một số làng, xã có những quy định về tang ma. Chẳng hạn:
- Lệ của làng Hà Cát, năm Chính Hoà thứ ba (1682) quy định: Việc cấp tiền cho phu dịch trợ tang chia làm ba hạng: 60 quan, 40 quan và 20 quan. Chôn cất xong gia chủ bày cốc chén mời dân uống rượu, sửa lễ bánh, quả chia cho dân mỗi người một phần. Nếu người mất là bậc khoa bảng hoặc hương lão 70, 80 tuổi trở lên thì bản xã sửa một đôi câu đối vải trắng, một buồng cau đến chia buồn, phúng viếng.
- Lệ của làng Thanh Hương, soạn năm Gia Long thứ 9 (1810) chép: Gia chủ biện lễ đến xã trưởng xin cấp phu dịch rồi làm cỗ mời toàn dân đến ăn uống. Đến ngày chôn cất thì sáng sớm hôm đó gia chủ làm tiệc rượu mời các quan viên, kỳ lão, chức dịch, các phu trợ tang ăn uống chu tất. Gia chủ mang trầu cau ra cảm ơn. Xã trưởng ra điếm đánh 3 tiếng trống báo cho các phu táng tang vào nhà tang chủ dùng trà, trầu cau rồi đưa ma ra đồng. Tiền đưa tang chia làm 3 hạng: 70 quan, 300 miếng trầu; hạng 50 quan và 200 miếng trầu và hạng 30 quan và 100 miếng trầu. Sau ba ngày chôn cất gia chủ biện lễ tam sinh, trầu rượu, cho người đem trầu đi mời các vị quan viên, văn hội, các vị trợ tế đến tế. Tế xong đem rượu đến nhà thủ bạ, hội giáp rồi mời quan viên đến giáp uống rượu. Cỗ bàn xong sai người tiếp đãi trầu nước để tỏ lòng hiếu. Lại có lễ đem trầu cau đến mời xã trưởng và dân đến ăn uống. Xã trưởng nổi trống hiệu cho dân xã biết đến nhà hiếu chủ ăn uống. Cỗ bàn xong lại sai người tiếp trầu, nước để tỏ lòng cảm ơn mọi người. Không được tiếp đãi sơ lược để trọn đạo hiếu. Người trong giáp qua đời, bản giáp sửa một đôi câu đối vải trắng, một miếng thịt trâu, một vò rượu, một hộp trầu mang đến nhà tang chủ. Bản giáp cắt cử bốn người cùng vị thủ bạ đưa đám đến tận huyệt.
- Lệ của làng Diêm Điền, soạn năm Tự Đức thứ 13 (1859) viết: Hiếu chủ biện 30 miếng trầu đến nhà lý trưởng, lý trưởng cắt người tới giúp việc tang ma. Xong việc hiếu chủ nộp tiền lệ 12 quan, 100 miếng trầu cau, một vò rượu, số tiền đó để chi tiêu việc công, còn việc ăn uống thì tuỳ hiếu chủ. Nếu nhà khá giả, con cháu biện cỗ thịt lợn, rượu kính mời toàn dân đến theo nghi lễ Thọ Mai. Bản xã đến phúng bằng một đôi câu đối, đội nhạc hiếu đến chia buồn. Nhà nào bần hàn thì chỉ mời bản giáp đến giúp việc tống tang, còn bản xã chỉ cho đội nhạc hiếu đến chia buồn.
- Lệ vùng Cát Chử (Trực Ninh) để làng đưa tang thì phải nạp một số tiền, hoặc làm cỗ đãi đưa tang. Giá tiền đầu thế kỷ XX là: lễ ở giữa đường 2.000 đồng, lễ lúc lên xe 1.000 đồng, chỉ có lễ an táng là 800 đồng.
- Lệ ở làng Hàn Xuyên có ba hạng: hạng một có bánh dày biếu tất cả hương hào chức dịch, hạng hai có xôi, thịt, rượu biếu đủ các vị; hạng ba nạp 10 quan tiền.
- Lệ ở Thanh Trà, tổng Quế Hải (Hải Hậu): mỗi khi có việc tang chỉ nộp 30 quan xã sẽ đốc người lo tất cả các việc từ kèn trống, lễ bái, chôn cất. Ai vì tham ăn sách nhiễu, xã sẽ phạt ba quan và một mẵm xôi gà lễ “tạ quá” ở miếu thành hoàng. Nếu gia chủ biếu xôi thịt còn nóng xin chia, xã sẽ bớt đi 5 đến 10 quan hoặc hơn, xã không yêu cầu lễ biếu.
- Lệ của làng Vị Khê (Nam Trực) có bốn hạng: hạng nhất nộp 12 đồng, gấp hai lần hạng nhì, bằng bốn lần hạng ba và bằng 12 lần hạng tư,v.v..
* Tục lệ ma chay của giáo dân
- Khi tín đồ qua đời, linh mục được mời đến làm lễ xức dầu với nghi thức đã định trong thánh lễ và ngoài thánh lễ.
- Tín đồ qua đời, người nhà báo cho linh mục chính xứ, ban điều hành giáo xứ, họ đạo, Nhà thờ kéo chuông sầu, chuông tử hay chuông rình sinh thì. Qua tiếng chuông người đồng đạo biết người qua đời là nam hay nữ: theo cách bảy tiếng rời + ba hồi nhịp ba (cho nam giới), chín tiếng rời + ba hồi nhịp ba (cho nữ giới). Nghe chuông đồng đạo hướng về phía nhà thờ đọc Kinh lạy Cha.
- Thân nhân tụ tập đến đọc kinh “cầu cho người hấp hối mong sinh thì”.
- Người qua đời được đặt nằm trên giường, xung quanh có rắc hoa tươi. Ngoài những ngày không được đưa tang như trong luật quy định: chủ nhật mùa vọng, mùa chay, Phục sinh, các lễ trọng, thứ tư lễ Tro và Tam nhật vượt qua không được làm lễ an táng người qua đời mà phải dời vào ngày khác, người Công giáo không chọn ngày giờ lành dữ để đưa tang.
- Tín đồ qua đời được đưa vào nhà thờ làm lễ chồng mồ. Quan tài đặt quay đầu về cung Thánh ở chính giữa. Trên áo quan phủ vải đen có hình thập giá trắng. Các góc quan thắp nến. Số nến thắp ít hay nhiều, thời gian làm lễ dài hay ngắn, số bài hát ít hay nhiều là tuỳ thuộc vào số tiền xin lễ của gia đình thân chủ. Khi đặt quan tài, dù ở nhà hay ở nhà thờ đều để người chết nhìn về bàn thờ Chúa, khi đưa đám, để chân người chết về phía trước.
- An táng: Người chết được đưa đi an táng. Đám tang đi theo thứ tự: cờ tang, quan viên, trẻ nam, trung nam, bát âm, vòng hoa, quan tài, thân chủ người qua đời.
Xứ, họ đạo không có nghĩa địa riêng, gia chủ phải mời linh mục đến làm phép huyệt. Người chết được đào sâu chôn chặt. Ngày nay, lễ tang tại các địa phương trong tỉnh được thực hiện theo quy ước về tổ chức lễ tang theo nếp sống văn hoá. Lễ tang ngày nay được quan niệm là việc gia đình, tập thể, xã hội, tổ chúc đưa người quá cố về nơi “an nghỉ cuối cùng”. Do đó, việc tang lễ phải trang nghiêm, biểu hiện tình cảm thương tiếc chân thành, thuỷ chung.
Gia đình người chết trong bất cứ hoàn cảnh nào đều phải khai báo với chính quyền cơ sở. Không để người chết tại nhà quá 48 tiếng. Trường hợp người chết vì bệnh dịch, gia đình phải tuyệt đối tuân theo sự chỉ đạo của cơ quan y tế. Những người chết đột xuất không rõ nguyên nhân hoặc có dấu hiệu tội phạm phải được cơ quan chức năng khám nghiệm theo quy định của pháp luật trước khi khâm niệm. Người chết ở nơi khác (ngoài đường sông…) nếu đã đưa về gia đình phải quản tại nhà hoặc nơi thích hợp không cản trở giao thông và trật tự, vệ sinh công cộng.
Gia đình có người chết tổ chức khâm niệm và nhập quan sau khi chết không quá 12 tiếng đồng hồ, khâm niệm xong phải làm vệ sinh, tẩy uế sạch sẽ đồ dùng, giường nằm của người chết, không làm ô nhiễm môi trường. Khi khâm niệm không làm lễ phạt mộc, tống tiền, hú hồn, yểm bùa… không đưa người chết vào nơi thờ tự để làm lễ, các nghi lễ tôn giáo tiến hành tại gia đình tang chủ.
Quan tài được đặt nơi trang trọng. Trên bàn thờ có ảnh tưởng niệm và hương hoa, không bày cỗ trên nắp quan tài.
Các vị chức sắc tôn giáo được phép đến làm lễ tại gia đình người chết. Thời gian làm lễ không quá 45 phút. Nghiêm cấm các hình thức mê tín dị đoan. Các đoàn thể vào viếng nhanh, gọn, trang trọng. Ban nhạc có trang phục chỉnh tề, chấp hành đầy đủ các quy định trong lễ tang. Kèn trống loa đài phục vụ lễ tang từ 5 giờ đến 23 giờ cùng ngày. Đến giờ quy định, ban lễ tang, thân nhân và khách đưa tang tập trung trước linh cữu làm các thủ tục, đọc điếu văn. Khi đưa tang mọi người giữ thái độ nghiêm trang, yên lặng. Xoá bỏ các hủ tục như đội mũ rơm, lăn đường… không làm ảnh hưởng đến giao thông, trật tự công cộng.
Huyệt đào sâu ít nhất 1,5 mét. Khi hạ quan tài xuống huyệt, đắp mồ, dựng bia, đặt vòng hoa, thắp hương. Những quy định trên được hình thành và duy trì ở các địa phương Nam Định trong thời gian vừa qua, khi phong trào xây dựng nếp sống văn hoá được phát động, triển khai ở tất cả các địa bàn dân cư. Đại diện tang chủ có lời cảm tạ những người đưa tiễn.
Các nghi lễ 3 ngày, tuần đầu, 49 ngày, 100 ngày, giỗ hàng năm tổ chức gọn nhẹ. Ngày giỗ là ngày để anh em, con cháu, bà con thân thích đoàn tụ, gia đình tưởng nhớ người đã khuất, củng cố tình cảm trong tôn tộc, huyết thống.
Đối với việc tang ma của giáo dân, nếu trước kia thường “đào sâu, chôn chặt” thì hiện nay nhiều nơi cũng cải táng sau ba năm.Nghĩa địa có hai khu hung táng và cát táng.

Chủ Nhật, 22 tháng 2, 2009

Văn hóa trang phục



Áo dài ngũ thân

Trang phục Việt Nam rất đa dạng. Ở thời phong kiến, có những quy định khắt khe về cách ăn mặc. Dân thường không được phép mặc đồ nhuộm bất kỳ màu gì ngoài đen, nâu hay trắng. Quần áo của người dân hầu hết rất là tầm thường và đơn sơ, đễ hợp với số phận trong xã hội (ngoài những dịp lể quan trọng hoạc đắm cưới vân vân).

Một trong những y phục cổ xưa nhất mà đã được phụ nữ bình dân mặc từ xưa đến đầu thế kỷ 20 là bộ Áo tứ thân. Có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng là Áo tứ thân có thể đã ra đời từ thế kỷ 12.

Vào thế kỷ 18, người bình dân ở hết 3 vùng chính Việt Nam đã bắt đầu mặc bộ đồ pijama đơn sơ (có thể có nguồn gốc ở miền nam), được gọi là áo cánh ở miền bắc và Áo bà ba ở miền nam. Khăn trùm đầu của họ là một mảnh vải đơn giản quấn quanh đầu và đồ đi dưới chân chỉ là một đôi guốc. Những dịp trọng đại đàn ông mặc hai thứ đồ truyền thống là áo dài có xẻ hai bên, và một khăn xếp, thường màu đen hay xám và được làm bằng vải bông hay tơ tằm.

Trang phục của cung đình, khác biệt hẳn từ trang phục đơn sơ của nông dân, rất rắc rối và gồm cố tới bao chục kiểu áo khác nhau đễ hộp với mổi hoàn cảnh và nghi lễ. Chỉ riêng nhà vua được quyền mặc đồ màu vàng, quan lại mặc đồ đỏ hay màu tía. Còn làm rắc rối hơn là mổi triều đại có thể thích thú hoặc không thích kiểu áo hòang gia của triều đại trước, chính vì vậy thời trang ở trong cung đình nhiều lúc thay đổi với mổi triều đại.

Trang phục truyền thống Việt Nam mà được quí nhất ngày nay là chiếc "Áo Dài", thường được mặc trong những dịp đặc biệt như cưới hỏi,tang tế v.v. Trang phục này có thể là đã có nguồn gốc từ thế kỷ 18 hoạc ở trong cung đình Huế. Từ lúc đó, Áo dài đã trải qua bao nhiêu sự phát triển, từ bộ áo ngũ thân rất rộng và không bó vào người như Áo dài hiện nay, cho tới bao nhiêu cải tiến khác nhau để hợp với những thay đổi trong thế giới thời trang. Cũng có người cho rằng Áo tứ thân mới là Áo dài đầu tiên, đã được biến thành Áo ngũ thân và cuối cùng mới thành chiếc Áo dài mình có hôm nay.

Áo dài trắng đã trở thành bắt buộc tại nhiều trường cấp ba Việt Nam. Các giáo viên nữ mặc Áo Dài mọi buổi lên lớp. Một số nữ nhân viên văn phòng như tiếp tân, thư ký, hướng dẫn viên du lịch cũng mặc Áo dài khi làm việc. Và theo đánh gia của một tờ báo của Nhật thi dường như chỉ có dáng của người con gái Việt Nam là mặc áo dài đẹp nhất Vì sự phổ biến của nó, áo dài đã trở thành biểu tượng quốc gia, đại diện cho các giá trị văn hóa Việt Nam.

Trong đời sống hàng ngày, kiểu ăn mặc truyền thống viên nay hiện đã theo phong cách phương tây. Trang phục truyền thống chỉ được mặc trong những dịp đặc biệt. Phụ nữ có thể không mặc váy và cả hai giới hiếm khi mặc các loại quần sóc.

Nguồn:http://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_h%C3%B3a_Vi%E1%BB%87t_Nam

Dòng họ - nguồn mạch truyền thống

Ở Việt Nam, dòng họ bền vững trong nếp sống cộng đồng. Lịch sử của một làng có khi từ một gia đình sinh cơ lập nghiệp. Gia đình lớn dần thành chi, thành phái. Tổ họ đồng thời là Thành hoàng, thành tổ nghề và họ truyền cho con cháu hậu duệ giữ lấy nghiệp lấy nghề, giữ lấy truyền thống làng xã, tổ phụ. Bởi thế mối liên kết dòng họ tưởng như không thành văn, thành luật nhưng vô cùng chặt chẽ, không chỉ một vài đời con cháu mà nhiều nơi hội đồng gia tộc truyền đời tới vài ba chục thế hệ.

Quê nghèo (Ảnh: vuongquangthai)

Trong cuốn tộc phả dòng họ Nguyễn Ðình ở Nghệ An, mở đầu trang trọng truyền lại cháu con: "Muôn vật sinh ra là nhờ có đất trời, con người sinh ra là nhờ có Tổ tiên. Lòng biết ơn Tiên tổ từ bao đời nay đã là nét cao đẹp trong nhân cách con người. Biết ơn Tổ tiên, con người có thêm sức mạnh tinh thần để yêu giang san, xã tắc, có thêm hạnh phúc bền lâu với đời...". Mới hay, việc lập đền, thờ cúng Tổ tiên chứa đựng trong đó tâm thức hướng tới đạo nghĩa làm người ở trong trời đất.

Mối liên kết tộc họ bằng nhiều cách riêng, tùy tập quán địa phương, những quy thức của từng họ mà lâu đời trở thành nền nếp, thành tập quán và truyền thống. Tuy nhiên tính tương đồng mang tính phổ quát. Dòng họ có nhà thờ Tổ. Ngày giỗ, con cháu thập phương tìm đường về thắp hương, dâng lễ tạ ơn Tiên tổ, trời đất. Ðây cũng là dịp các chi xa chi gần tìm về nhận họ hàng, phân định trên dưới, anh em. Những cuộc đoàn tụ như vậy thường diễn ra vào ngày giỗ tổ, hoặc tháng 3, tháng 7 âm lịch, nhằm vào tiết Thanh Kinh hằng năm. Ðó là những dịp gặp gỡ ấm tình huyết thống và cảm động. Cháu con chung sức xây dựng tôn tạo nhà tờ, sửa sang phần mộ. Ðây cũng là dịp để họ đương chi phái kiểm điểm lại những việc cháu con đã làm, những công tích đáng ghi. Theo đó cuốn gia phả, tộc phả có dịp ghi thêm vào truyền thống của dòng họ mình đời này qua đời khác.

Hằng năm, cứ đến ngày 28 tháng 2 âm lịch tại làng Kim Ðôi tỉnh Bắc Ninh dù ai đi đâu về đâu cũng nhớ về giỗ Tổ để tự hào về tổ tiên dòng họ. Trong số 25 tiến sĩ của làng mà bia đá còn ngời ngời nơi Quốc Tử Giám, có tới 18 vị tiến sĩ dòng họ Nguyễn với 13 đời nối tiếp đỗ đại khoa. Ðặc biệt trong đó có 1 gia đình 5 anh em đỗ tiến sĩ trong 4 khoa thi Ðình liên tiếp. Hiếu học là một bằng chứng của truyền thống văn hóa dòng họ. Nhưng không chỉ có thế. Trong gia đình, họ đương nhiều đời truyền lại cháu con nghề truyền thống mà nay thường gọi là nghề gia truyền. Nghề ươm tơ dệt vải, nghề rèn, nghề mộc, nghề chạm khảm, nghề đúc đồng, nặn tượng v.v... Khởi thủy của dòng nghề đó là từ một gia đình, một dòng họ.

Dòng họ trong cuộc sống cộng đồng người Việt mang đậm bản sắc văn hóa. Cây có gốc có rễ, người có nguồn có cội. Bởi thế mà nhiều người Việt, dù đã sống xa Tổ quốc nhưng vẫn hướng lòng về xứ sở, về nguồn cội thiêng liêng của mình. Mấy năm về trước, dòng họ Lý đã đón tiếp hậu duệ một quân vương họ Lý phiêu bạt sang Hàn Quốc. Tính đến nay đã ngót 9 thế kỷ mà con cháu họ Lý vẫn không nguôi nhớ về Tổ tiên xa xưa của mình. Nhiều Việt kiều xa nước, chưa có điều kiện về lại quê hương, đã gửi tiền về cho Hội đồng tộc họ để góp phần mình tu tạo nhà thờ, phần mộ Tổ tông.

Nhiều người tâm huyết với văn hóa dòng họ đã để công trong nhiều thập kỷ nghiên cứu, sưu tầm hệ thống những tinh hoa, truyền thống của dòng họ Việt Nam nói chung cũng như của một số dòng họ đặc sắc trong lịch sử, đóng góp xứng đáng cho sự phát triển văn hóa dân tộc. Cuốn sách công phu "Tìm hiểu di sản văn hóa gia đình Việt Nam", hay "Cuộc hành trình trở về cội nguồn" v.v... Ðặc biệt có những cuốn gia phả như trong "Thiên Nam liệt truyện Nguyễn Cảnh Thị Hoan Châu ký" chép lại một dòng họ từ giữa thế kỷ 17 lại nay.

Tại câu lạc bộ UNESCO, thông tin các dòng họ Việt Nam cách đây không lâu đã tổ chức thành công hội thảo mang tên "Dòng họ với truyền thống văn hóa dân tộc". Nhiều tham luận có giá trị như một công trình nghiên cứu văn hóa đặc thù Việt Nam.

Họ Nguyễn, họ Trần, họ Lê, họ Phan, họ Ðặng... trăm họ tạo nên dân tộc. Trăm ngàn nhà tạo nên làng xã, làm nên Ðất Nước. Nhà có yên thì nước mới vững. Dân có giàu thì nước mới mạnh. Quan niệm về Dân-Nước, về Làng-Nước quyện vào trong hình tượng Tổ quốc, Dân tộc. Dân tộc trường tồn trong nguồn mạch văn hóa cộng đồng. Dòng họ đóng một vai trò quan trọng không thể thiếu được trong quá trình dựng nước và giữ nước. Gìn giữ bản sắc dân tộc, truyền thống cùng với phong tục tập quán văn minh, tạo nên nếp sống của dân tộc. Tìm về dòng họ, tìm về cội nguồn chính là tìm về truyền thống tốt đẹp của dân tộc của đất nước mình.


Theo http://hanoi.vnn.vn/vanhoa/

Văn hóa làng xã và triết lý phát triển

Ngày nay, nghe rất nhiều vĩ từ nói về văn hóa, ít ai thích chữ làng xóm quê mùa. Phải chăng những nét đẹp của nôi văn hóa làng xã bị bỏ qua, nhưng tính tiểu nông vẫn còn trong tư duy.

Một lần ra Hà Nội, thấy nhà cao tầng lắp ghép ở Thành Công, bố tôi thích lắm. Nhưng khi vào căn hộ trên tầng 4, cụ ngạc nhiên. Nhà anh cửa không ở chính giữa, không có ngưỡng cửa, hai gian thông thống, bàn thờ để đâu? - Bố cổ quá rồi, bây giờ ai làm thế.

Cụ thở dài, ngưỡng cửa để người ra vào phải cúi xuống, vừa không bị vấp nhưng cũng là cúi đầu bàn thờ tổ tiên để gian giữa. Anh đi xa quên hết rồi.

Mấy hôm nay, tầu xe bắt đầu chật chội, bận rộn hơn. Hàng triệu người hối hả về quê ăn Tết. Buồn thay những người không có nơi để về hay không thể thăm nơi cố hương. Trong số về làng, còn ai bước qua cái bậu cửa, nghiênh mình trước tổ tiên!

Từ thời xa xưa, làng xã là tổ chức cộng đồng khép kín. Đình làng thờ thành hoàng, tổ chức lễ hội. Lũy tre và cổng làng là điển hình của biên giới và cửa khẩu của “làng gia” với những luật lệ riêng.

Gia đình, dòng tộc cũng đóng góp phong phú thêm truyền thống làng xã. Về quê gặp ông trưởng tộc, tuổi còn rất trẻ nhưng già trẻ vẫn phải thưa gửi. Con cái ăn khoai sắn thay cơm nhưng nhà thờ họ, giỗ họ, mộ tổ phải to.

Sau lũy tre chứa đựng những điều tốt đẹp và cả bất cập. Mọi sự phát triển, tụt hậu, chiến thắng hay thất bại đều dựa vào truyền thống ấy. Gọi mỗi người Việt Nam là một trai làng cũng không ngoa. Vì quả thật, họ được sinh ra trong cái nôi bản sắc văn hóa làng xã đó. Phải chăng đó là triết lý cho phát triển một đất nước với 70%-80% nông dân.

Truyền thống làng xã thời chiến tranh và bao cấp

Trải qua gần nghìn năm Bắc thuộc, rồi mấy cuộc xâm lăng của gần đây, làng xã và lũy tre là pháo đài chống giặc, sàng lọc luôn cả văn hóa ngoại lai. Lời kêu gọi “cứu nước cứu nhà” đưa về từng làng xóm, “đóng cửa bảo nhau” đã vận động và đưa ra tiền tuyến hàng triệu thanh niên.

Hợp tác xã là một biến thể khác của kiến trúc làng xóm. Với tư duy làm chủ tập thể, nghĩa là ai cũng là chủ nhưng không ai muốn…làm. Nông dân ta vốn cần cù đi sớm về muộn nay được đi muộn về sớm. Bao nhiêu ruộng đất, trâu bò được cho vào chung. Đình làng, chùa chiền được đập đi và xây nhà kho đựng lúa, phá hỏng cái nôi văn hóa làng.

Mô hình HTX đã gây thảm họa vì khuyến khích thói quen “cha chung không ai khóc”. Bầu bán gây mất đoàn kết nghiêm trọng vì các dòng tộc thi nhau vận động để người của mình được vào ban chủ nhiệm.

Truyền thống làng xóm đem lại chiến thắng trong chiến tranh nhưng thất bại trong xây dựng một thời vì hàm lượng văn hóa làng xã trong những quyết định khác nhau.

Thời hội nhập và hệ lụy

Cũng may có đổi mới - hay còn gọi là sửa sai quá khứ. Người nông dân làm chủ đồng ruộng thực sự. Từ nước phải nhập lương thực, dân đói khát, ăn bo bo thay gạo, Việt Nam xuất khẩu gạo, đứng thứ 3 trên thế giới. Lũy tre giúp cho hạt gạo thành đô la.

Tham gia WTO, rồi mở cửa. Từ chỗ 80% dân sống dưới mức nghèo khổ nay còn 15%. Nhiều trai làng đã ra thành phố để lại miền quê phía sau. Và “tre làng” đang len lỏi mọc trong hành xử của dân chúng, trong trí thức và cả người lãnh đạo.

Thời thế đã đổi thay. Cổng làng là internet gateway. Đôi khi, khó mang “lệ làng tôi” ra tranh cãi với quốc tế với những khái niệm và giá trị chung của nhân loại về quyền con người, dân chủ, tự do thông tin, minh bạch hay công lý.

Phương Tây tôn trọng tính cá nhân trong mỗi con người. Phương Đông cho rằng cộng đồng quan trọng hơn. Người Việt trồng những bụi tre bao gồm rất nhiều cây đứng đan xen, cành rậm rịt và gai góc để bảo vệ làng xóm.

Phía sau lũy tre ấy cũng chứa đựng những tăm tối. Lệ làng cổ hủ, phong kiến hay tôn sùng vô thức. Lợi ích nhóm, làng anh, làng tôi, họ Nguyễn, họ Lê, để rồi tự dìm nhau. Tuyển con cháu vào cơ quan gây ra xung đột lợi ích. Kiến trúc đô thị hay hành xử công cộng được mang từ quê ra thành phố và tràn sang cả nước bạn. Những tăm tối là rào cản trong phát triển, cần được chiếu sáng.

Nguy cơ cao hơn cả là mỹ từ toàn cầu hóa có thể cuốn đi cả một đất nước, một nền văn hóa. Người ta chú trọng đến mở rộng thành phố, thêm nhà máy, khu công nghiệp, xây sân golf. Môi trường bị hủy hoại, rồi tài nguyên thiên nhiên, đất trồng trọt, làng mạc dễ bị mất vào một bàn tay núp dưới danh nghĩa hội nhập.

Thấy chuyện bẻ hoa gần đây, cô cháu viết mail, bức xúc trước chuyện người ta lên án người nhà quê một cách bừa bãi. Theo cháu, Chí Phèo bị đẩy ra khỏi cuộc sống cộng đồng làng xã, và chính cộng đồng đó – tự thân nó cũng đang bị rạn vỡ. Thế nên Chí mới phải chết trên ngưỡng cửa làm người. Dưới danh nghĩa phát triển, văn hóa làng xã đang bị lên án oan ức, bị đổ tội, bị quy trách nhiệm vì sự phát triển nửa chừng của văn hóa thành thị.

Lũy tre làng và triết lý phát triển

Đất nước đang đứng trước những thời khắc quyết định mà yếu tố văn hóa không thể tách rời và phải là cái nôi để phát triển.

Phía sau lũy tre Việt Nam là những tâm hồn yêu quê hương, gắn bó với đất nước, tình đoàn kết chòm xóm, tối lửa tắt đèn có nhau, không quên cội nguồn. Tôn ty trật tự trong làng, dòng họ và gia đình, có trên, có dưới, một xã hội có thứ bậc. Rồi kiến trúc đình làng, ngôi nhà ở quê với ngưỡng cửa và bàn thờ. Những giá trị truyền thống là cội nguồn sức mạnh từ hàng ngàn năm nay.

Là quốc gia đồng nhất về sắc dân và văn hóa, người Nhật lấy truyền thống trên dưới, tôn ti trật tự và kỷ luật lao động cho phát triển. Gia đình là tổ ấm, vai trò nam nữ ấn định rõ ràng. Nam giới hướng ngoại (soto no), nữ giới hướng nội (uchi no). Cách cúi chào bằng cách gập người xuống và độ hạ thấp tùy thuộc địa vị xã hội, một dấu hiệu để tỏ lộ sự kính trọng. Nhưng họ lại dung hòa được với nền dân chủ văn minh và tự do báo chí.

Với đất nước đa sắc tộc, người Mỹ lấy yếu tố cá nhân làm chủ đạo trong phát triển xã hội, dựa trên nguyên tắc tam quyền phân lập, có báo chí là “quyền lực thứ tư”, giám sát xã hội. Quyền con người được tôn trọng. Nam nữ bình đẳng, khác với truyền thống Nhật. Ngoài ra, sự phát triển của Hoa Kỳ dựa trên nền tảng giáo dục, gia đình và tôn trọng cá nhân. Họ dùng các nhát cắt rất rõ ràng để ra các định chế.

Người Nhật và người Mỹ đã bỏ chúng ta khoảng cách hàng trăm năm. Nhiều quốc gia khác cũng đang dùng văn hóa, truyền thống của mình để phát triển đất nước. Không thể theo người ta vì nôi văn hóa của họ rất khác. Mang truyền thống Trung hoa hay Thái lan áp đặt cho dân ta cũng thất bại. Chính sách đồng hóa của ngoại bang chưa bao giờ thành công ở đất nước này, lý tưởng lấy từ bên ngoài cũng dễ bị lũy tre chặn lại.

Nhiều nhà kinh tế hay chính trị thường quên đi giá trị của văn hóa khi ra các quyết định mà không hiểu rằng, văn hóa không những là di sản mà còn là tương lai của dân tộc. Nôi văn hóa làng xã sẽ đi theo suốt chặng đường phát triển. 80% là nông dân, 20% đang ở thành phố cũng do nông dân đẻ ra. Triết lý phát triển không thể quên yểu tố “nông dân” và cái đình làng.

Làm gì để những trai làng kia thành những công dân toàn cầu. Họ thắng giặc ngoại xâm, nhưng trong xây dựng lại chưa đủ tri thức dù lũy tre làng từ ngàn đời đã dậy cho họ tính ham học, vươn lên từ gian khó.

Người ta nói về thế hệ toàn cầu phải có tri thức giầu có, biết tiếng Anh, giỏi máy tính, hiểu văn hóa thế giới. Kể ra thì rất nhiều. Nhưng có khi nó rất đơn giản. Nếu nền giáo dục tạo ra thế hệ có tầm nhìn, độc lập suy nghĩ, tự quyết định, tự chịu trách nhiệm thì trước mọi bài toán của cuộc đời, họ biết làm thế nào để tìm lối ra.

Ngày nay, nghe rất nhiều vĩ từ nói về văn hóa, ít ai thích chữ làng xóm quê mùa. Phải chăng những nét đẹp của nôi văn hóa làng xã bị bỏ qua, nhưng tính tiểu nông vẫn còn trong tư duy. Vì thế, người già còn thở dài, lo đám con cháu bước qua bậu cửa, quên nghiêng mình trước tổ tiên. Những trai làng chưa thể bước ra ngoài với thế giới.
Nguồn: http://mag.ashui.com/index.php/tuongtac/phanbien/55-phanbien/679-van-hoa-lang-xa-va-triet-ly-phat-trien.html

Văn minh đường phố

Hằng ngày thỉnh thoảng những chiếc xe tang chạy trên đường phố, vừa đi vừa thả hàng loạt những đồng tiền âm phủ khắp các tuyến đường, cảnh “Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay” như cụ Nguyễn Du đã tả năm xưa vẫn xuất hiện giữa thời văn minh hiện đại. Đó là một phong tục xưa cũ đến nay vẫn tỏ ra thịnh hành với nhiều ý kiến khác biệt, và thực tế “giải pháp” có chất tinh thần ấy mỗi năm tiêu tốn một khối lượng tiền bạc khổng lồ của xã hội.


Tập tục xưa của người dân Việt ở nhiều nơi cho rằng khi người thân mất đi thì những người sống phải có trách nhiệm lo đủ tiền bạc cho người đã mất mang sang bên kia thế giới... để có tiền tiêu xài! Cũng theo quan niệm của người xưa, những người sống trên cõi phàm dù khổ hay sướng nhưng đến khi từ giã cõi trần phải cho họ “cuộc sống” đầy đủ thì họ mới phù hộ cho người sống (!). Chất lượng cuộc sống ngày nay đã được cải thiện đáng kể đối với một bộ phận dân chúng, việc mua giấy tiền vàng mã để đốt cho người chết là việc quá dễ dàng cho nên đốt trong nhà chưa đủ phải mang ra đường mà rải mới là có cái tâm chu đáo với người ra đi (?).

Việc tốt không thấy đâu nhưng vì những “cái tâm” ấy mà hàng năm trên cả nước đã có cả trăm tỷ đồng cháy theo vàng mã – riêng tại Hà Nội đã “cháy” gần 80 tỷ đồng! Nói cho đúng thì đây là một sự phung phí trong khi đất nước còn nghèo, bão lũ vẫn xảy ra triền miên, nhiều ngươi chưa có mái nhà đủ che mưa che nắng... vậy mà cứ trong nhà có chuyện tử biệt sinh ly dù nghèo hay giàu, người ta vẫn cứ phải cố gắng đổ tiền đi mua vàng mã đốt cho người chết. Thừa tiền lắm bạc đốt đã đành mà nghèo khó cũng “rãi” vì nếu không thì sẽ “có lỗi với người đã khuất”!? Những chiếc xe tang cứ vô tư rãi bất cứ nơi nào đi qua, bất luận sự ảnh hưởng của những tờ giấy “tiền, vàng” mã ấy đến người đi đường và môi trường sống. Người đã mất hẳn nhiên là không nhận được những “đồng tiền” kia. Chỉ thấy tội cho những người công nhân vệ sinh đường phố ngày ngày cứ phải thu dọn hàng “tỷ đồng” mà chẳng biết làm gì hơn là đổ chúng vào thùng rác!

Văn hóa đường phố đang thực sự trở thành một vấn đề cần xã hội quan tâm, có những người coi đường phố như chỗ xả rác công cộng, đặc biệt trên những chuyến xe khách, “thượng đế” ăn uống trên xe rồi lại cứ tiện tay thẩy hết xuống đường, không cần để mắt đến người đi đường khác đang hiện diện quanh mình. Lại có những chuyện khá trớ trêu thuộc loại chuyện thường ngày ở phố. Tại các ngã tư, ngã năm khi đèn giao thông đang đỏ, có những người lái xe cứ đua nhau mà bóp còi inh ỏi. Xe con xe lớn, xe buýt... mạnh ai nấy rú còi làm cho nhiều người thót tim.

Đất nước ta đang trên đường hội nhập kinh tế, việc xây dựng nếp sống văn minh văn hóa mới đồng nghĩa với xóa bỏ những phong tục lỗi thời lạc hậu. Nền văn hóa Việt Nam mới tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc có thể nào dung nạp hay duy trì những tập tục cũ kỹ lỗi thời không có căn cứ khoa học. Trong lúc mỗi ngày chúng ta đều kêu gọi xây dựng nếp sống văn minh đường phố thì trước hết phải tự nâng cao ý thức trách nhiệm công dân, coi đường phố cũng là một phần trong căn nhà của mình. Một đô thị xanh sạch đẹp không thể chỉ dừng lại bằng những câu khẩu hiệu suông, mà cách hành xử của mỗi người phải thường trực ý thức kỷ cương phù hợp (của nhà chức trách) vì lợi ích tiến bộ của cả cộng đồng.

Lê Dũng

Nguồn: http://baodaidoanket.net/ddk/mdNews.ddk?id=2604

Siêu thị và văn hóa chợ truyền thống

Siêu thị ở Việt Nam luôn sáng choang đèn điện với những lối đi mát rượi, sạch sẽ và vô số quầy hàng trưng bày hàng hóa phong phú. Nhân viên bảo vệ và nhân viên hướng dẫn luôn sẵn sàng trả lời bạn bất cứ câu hỏi nào một cách tận tình.

Nhưng sao có cái gì đó khiến tôi cảm thấy như thể không phải mình đang ở Việt Nam khi bước vào siêu thị. Đâu rồi bản sắc văn hóa của Việt Nam?

Siêu thị không có những nét truyền thống mà người ta có thể thấy ở chợ ngoài trời tại Việt Nam. Điều này khiến tôi lo ngại vì những khu mua sắm khổng lồ đang nuốt dần văn hóa Việt. Không chỉ tôi mà những người nước ngoài đến Việt Nam có lẽ đều cảm thấy có điều gì đó rất đặc biệt về những ngôi chợ truyền thống ở đất nước này.

Nhìn vào bất kỳ quầy hàng nào ở siêu thị, bạn cũng sẽ bị choáng ngợp bởi màu sắc và nhãn hiệu hàng hóa trên chai, lọ, lon, túi, hộp. Quá nhiều những “Thêm 20%”, “Thêm 50%”, “Ngon tuyệt”, “Hảo hạng”, “Được làm giàu với vitamin A và B”… và danh sách nếu kể thêm còn dài vô tận. Bạn sẽ quyết định thế nào đây? Trong siêu thị, sản phẩm phải tự nó bán nó, nhưng tại chợ, người bán hàng chính là người bán sản phẩm.

Chợ là nơi của những người bán hàng mau mắn và nhanh nhẹn, họ phải hiểu sản phẩm để giới thiệu và thuyết phục bạn mua hàng. Tôi thích mua thứ gì mà tôi có thể nghe người bán hàng rao trong không khí nhộn nhịp, đầy sức sống từ những sạp hàng… - một thứ gì đó thực sự được bán! Người ở chợ lao động để bán sản phẩm, nhưng tại siêu thị, những kỹ năng này phai nhạt dần.

Siêu thị sạch sẽ, đó là một lợi thế khiến nhiều người thích bước vào. Trong khi ở chợ hàng hóa được bày bán khá hỗn loạn, thịt treo trong nhiệt độ ngoài trời, ruồi nhiều, chuột cống cũng nhiều, những sạp hàng tươi có vẻ không được vệ sinh lắm. Nhưng cũng bởi vì những hệ thống làm lạnh, bao bì đóng gói tưởng như vô trùng trong siêu thị lại chứng tỏ một điều rằng thực phẩm trong siêu thị rõ ràng không thể nào tươi bằng ở chợ!

Và vì thực phẩm để ngoài trời dễ hư hơn trong siêu thị nên thực phẩm được mang ra bán ở chợ cần phải tươi và mới mỗi ngày. Thức dậy lúc ba rưỡi, bốn giờ sáng, bạn sẽ thấy rất nhiều xe ba gác, xe gắn máy đi vào thành phố kéo theo nào những trái cây, rau tươi, mì, bún và nhiều thứ khác để bán ở chợ trước khi những người đi chợ sớm đến quầy hàng quen.

Với sự xuất hiện đầy tính cải tiến của siêu thị, những người bán lẻ (mà ở tiếng Anh gọi là “những người nhỏ”) trở nên không cần thiết trong hệ thống chuyên nghiệp ấy. Tất cả những hoạt động nông trại nhỏ cùng với những hoạt động giao thương nhỏ hầu như không được tính đến trong hệ thống để duy trì sự tươi mới của thực phẩm bán tại siêu thị. Siêu thị có những tiện ích bảo quản, máy lạnh cỡ lớn và bán sản phẩm ở một quy mô lớn. “Những người nhỏ” trở nên vô dụng đối với hệ thống lớn.

Về giá cả, ở siêu thị luôn bán đúng giá niêm yết. Đây cũng được xem là một ưu điểm nữa vì người mua hàng không sợ bị hớ, bị lừa. Nhưng đó là chi tiết đi ngược với truyền thống thích trả giá của người Việt. Đối với những thế hệ trước, đó là một thử thách, một trò chơi mà họ là người quyết định thắng thua. Vui chứ, tại sao không nhỉ?

Trả giá là một kỹ năng xã hội mà nhiều người sẽ cảm thấy trống vắng nếu thiếu nó. Đó là cơ hội để chứng tỏ khả năng nhạy bén với thị trường, kỹ năng mua bán và cơ hội cho người bán hàng biết được khẩu vị của người mua hàng. Đó là một trò thể thao đầy tính tương tác, cạnh tranh và tính khuyến khích! Xét về khía cạnh này, siêu thị kém xa. Khách hàng ở siêu thị không cần phải nói một lời. Điều duy nhất người bán hàng nói là giá tiền. Chi tiết đó không mang tính xã hội chút nào.

Khi chợ đang ở trong danh sách “đỏ”, không ai có thể đoán được tuổi thọ của chợ trong thời buổi này. Nhưng việc mất đi nét văn hóa chợ truyền thống sẽ dẫn đến sự mất mát văn hóa của người dân địa phương. Chính văn hóa địa phương ấy là thứ gắn chặt và làm nên thói quen kinh tế, xã hội của người Việt. Liệu người Việt Nam có để điều quý giá này ra đi?

Theo DREW TAYLOR
Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần

'Văn hóa' đội mũ bảo hiểm

Sau một thời gian dài vận động, tuyên truyền một cách rộng rãi qua các phương tiện thông tin đại chúng, việc đội mũ bảo hiểm đối với người ngồi trên xe gắn máy cũng đã được đông đảo mọi người chấp nhận.


Tuy nhiên vẫn còn nhiều ý kiến cho rằng đội mũ bảo hiểm là không cần thiết. Riêng bản thân tôi, tôi cũng chưa chắc chắn được quan điểm của mình rằng “đội nón bảo hiểm trong nội thành là cần thiết hay không?” Vì thực tế vẫn còn nhiều tranh cãi: đường thành phố thì chật hẹp, đội nón bảo hiểm chắc chắn sẽ hạn chế phần nào tầm nhìn… Gần đến ngày qui định đội mũ bảo hiểm được áp dụng (15/12/2007) nhưng quả thật tôi không tin chắc rằng mọi người đều sẽ chấp hành. Ở đây tôi không nói đến việc mọi người có “vui vẻ” chấp hành hay không? Tôi chỉ xin nói đến “văn hóa” đội mũ bảo hiểm trong thời gian vừa qua và cũng có thể là trong thời gian tới khi mà ngày bắt buộc đội mũ bảo hiểm đang tới gần kề.

Hiện nay cảnh sát giao thông đã cưỡng chế người tham gia giao thông phải đội mũ bảo hiểm bằng nhiều cách. Lập "chốt" kiểm tra, tuần tra giám sát các tuyến trọng điểm, lập biên bản xử phạt nặng người vi phạm...

Để đối phó, nhiều "tiểu xảo" đã được một số người tham gia giao thông, chủ yếu là lớp trẻ, thực hiện nhằm "qua mặt" cảnh sát giao thông như thuê nón, cho mươn nón…

Nhiều người tham gia giao thông dường như "bức bối" khi phải đội mũ bảo hiểm; coi việc đội mũ bảo hiểm sẽ làm cho mình thiếu style do đó là… không cần thiết. Một điều đáng quan tâm là một bộ phận không nhỏ người tham gia giao thông chưa tự giác thực hiện quy định "đội mũ bảo hiểm khi đi môtô - xe máy trên các tuyến đường bắt buộc".

Tuy nhiên sự thiếu tự giác này có nhiều nguyên nhân của nó, một phần là do sự thiếu hiểu biết nhưng quan trọng hơn hết là người dân vẫn chưa tin tưởng vào “chất lượng” của mũ bảo hiểm. Một số vụ tai nạn gần đây xảy ra làm vỡ mũ bảo hiểm của người bị nạn đã từng gây "nghi ngờ" đối với chất lượng mũ bảo hiểm. Dường như tư duy chưa thông, nên xuất hiện đủ "lí do tranh cãi" xung quanh việc đội mũ.

Do đó quy định người đi môtô - xe máy phải đội mũ bảo hiểm chưa tạo thành thói quen của người tham gia giao thông. Sau khi lực lượng cảnh sát giao thông "rút quân" hoặc khi vắng bóng cảnh sát giao thông, người đi môtô - xe máy lại bỏ mũ bảo hiểm ở nhà hoặc tháo mũ bảo hiểm đang đội để vào cốp xe cho “sướng”. Nhưng họ lại không biết rằng tai nạn giao thông đe doạ mạng sống mọi lúc, mọi nơi, nên việc đội mũ bảo hiểm khi đi "ngựa sắt" để bảo vệ mình là cần thiết, nhưng không phải ai cũng hiểu và thay đổi được thói quen “ngàn năm vẫn vậy”.
Nguồn http://www.danong.com/data/cache/7702.html

Thứ Sáu, 20 tháng 2, 2009

Tục thờ cá Ong của ngư dân ven biển

TỤC THỜ CÁ ONG CỦA NGƯ DÂN VEN BIỂN MIỀN NAM TRUNG BỘ

Tục thờ cá Ông là một tín ngưỡng dân gian khá phổ biến của ngư dân ven biển nước ta, từ Thanh Hoá vào đến tận Kiên Giang. ở ven biển Quảng Ninh cũng có tục thờ cá voi trong những miếu nhỏ ở những nơi cá voi vào bờ hoặc nơi cá voi chết, song không có lăng thờ [23, tr.571]. Dọc theo bờ biển, hầu hết các làng chài đều có các lăng miếu thờ cá Ông với những nghi thức cúng tế hết sức trang trọng.

1. Nguồn gốc tục thờ cá Ông ở ven biển Nam Trung Bộ

Tục thờ cá Ông là một tín ngưỡng dân gian khá phổ biến của ngư dân ven biển nước ta, từ Thanh Hoá vào đến tận Kiên Giang. ở ven biển Quảng Ninh cũng có tục thờ cá voi trong những miếu nhỏ ở những nơi cá voi vào bờ hoặc nơi cá voi chết, song không có lăng thờ [23, tr.571]. Dọc theo bờ biển, hầu hết các làng chài đều có các lăng miếu thờ cá Ông với những nghi thức cúng tế hết sức trang trọng.

Các thư tịch cổ như Thối thực kí văn, Đại Nam nhất thống chí, Gia Định thành thông chí... đều miêu tả cá Ông tính tình hiền lành hay cứu người, là vật hiển linh, thường chỉ xuất hiện ở biển phía Nam, từ sông Gianh vào đến Hà Tiên.

Theo truyền thuyết của dân chài, thì tục thờ cá Ông bắt nguồn từ chuyện một chàng sĩ tử bị thầy đồ rút gươm chém đầu và hoá thành cá voi, suốt bốn mùa bơi trên biển để cứu người bị nạn.

Một truyền thuyết khác kể về việc Nguyễn ánh (sau này là vua Gia Long) trong quãng đời bôn tẩu của mình, được cá Ông cứu sống trong một lần thuyền sắp bị đắm, lúc đang bị quân Tây Sơn rượt đuổi trên biển (rất giống truyền thuyết phổ biến ở Vàm Láng thuộc xã Vàm Láng, huyện Gò Công, tỉnh Tiền Giang). Dạng truyền thuyết này cũng khá phổ biến ở các tỉnh Nam Bộ như Bà Rịa - Vũng Tàu, Tp. Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Bến Tre... những nơi đã từng lưu dấu chân của Nguyễn ánh hoặc như truyền thuyết ở Bình Thuận kể rằng, vua Gia Long trong một lần ngự thuyền rồng ở Huế, chẳng may thuyền gặp phong ba, trôi dạt vào đến tận Bình Thuận. Vua được cá Ông cứu, đưa thuyền vào bờ, nhưng cá thì kiệt sức mà chết [28, tr.36]. Riêng ở thôn Quảng Hội (xã vạn Thắng, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà) lại có truyền thuyết liên quan đến Quan Công và ông Nam Hải. Một con phượng hoàng đẻ ra hai trứng, một trứng rớt xuống biển Đông hoá thành ông Nam Hải (cá voi) và trứng kia rơi trên đất liền, được một vị hoà thượng ấp trong đại hồng chung, sau 100 ngày nở ra Quan Thánh, vị này sau bị dẹp sau ót do chui ra từ trong chuông (?).

Còn sự tích nhà Phật kể rằng: Một hôm Phật Bà Quan Âm tuần du trên biển Đông, thấy dân lành đói khổ, thường xuyên phải ra biển kiếm ăn trong điều kiện mưa gió bão bùng, tính mạng có lúc bị đe doạ... Động lòng thương, Phật Bà đã xé vụn chiếc áo cà sa của mình, quăng xuống biển, biến thành vô vàn con cá voi. Cùng với bộ xương voi và “phép thâu đường” (phép rút ngắn đường đi) đã được Phật Bà ban cho, cá voi làm nhiệm vụ cứu người giữa bão tố.

Trong thần thoại Chăm, cá voi vốn là hoá thân của vị thần Cha-Aih-Va. Vì nôn nóng trở về xứ sở sau thời gian rèn luyện phép thuật, Cha-Aih-Va đã cãi lời thầy tự ý biến thành cá voi, ra sông lớn mà đi và sau đó bị trừng phạt. Cha-Aih-Va đổi tên và tự xưng là Po Riyah (thần Sóng Biển), cũng có lúc hoá thân thành thiên nga, trở thành ân nhân của những người bị đắm thuyền [10, tr.1]. Cũng theo thần thoại này (Bài ca Patan Gahlau), có một thời gian dài, vua cá voi sống ở Lào và người ta đã lập những ngôi đền ở đây để thờ phụng thần hộ mệnh [1, tr.117-118].

Và trong dòng chảy của tín ngưỡng này, cùng tồn tại ở vùng Nam Đảo (châu á), Nhật Bản những huyền thoại về các thần dạt vào từ biển. Đã có một truyền thuyết về con cá voi thần kì, chở đến cho người miền núi phía Nam Việt Nam một hài nhi cứu thế, giải phóng loài người khỏi bị đau khổ. Trong khi đó ở Campuchia lại không tìm thấy dấu vết gì về sự thờ cúng này [8, tr.122].

Tục thờ cá Ông vốn là tín ngưỡng của người Chăm (thuộc khu vực văn hoá Malayo - Polynési) mà những lưu dân người Việt trên bước đường Nam tiến đã tiếp thu được trong quá trình giao lưu văn hoá và tín ngưỡng này đã ăn sâu vào kí ức cư dân ven biển thông qua việc tổ chức các lễ hội cúng cá voi hằng năm diễn ra trên vùng đất mới này [16, tr.24-27].

Ở miền Bắc, do ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa, chuyên đánh bắt cá voi nên không có tục thờ này. Trong dân gian hay lưu truyền câu “Tại Nam vi thần, tại Bắc vi ngư” (ở miền Nam là thần, miền Bắc chỉ là cá) là vì vậy.

Về tín ngưỡng, đa số ngư dân Nam Trung Bộ theo đạo thờ cúng ông bà tổ tiên. Trong hoạt động ngư nghiệp, họ coi trọng việc thờ cúng các vị thần hữu hình và vô hình như Hà Bá, Ngũ vị Long vương, Bát Bửu công chúa, Các Bác, Bà chúa Xứ, Bà chúa Đảo, ông Sứa, Rái Cá, ông Nược (cá heo), bà Tám (rùa biển), Mộc Trụ thần xà, bà Lạch (rắn biển)... Tuy nhiên, cá Ông là vị phúc thần được ngư dân thờ cúng tôn nghiêm, kính tín với những nghi thức, lễ hội uy nghiêm nhất.

2. Đặc điểm thờ cúng

2.1. Nghi thức cúng tế

Về thời gian mở lễ hội cá Ông thì không có ngày thống nhất chung, mà mỗi nơi tuỳ thuộc vào ngày cá Ông đầu tiên luỵ hoặc ngày nhận sắc vua phong. Lễ hội này được tiến hành, coi như một hình thức “giỗ ông” vậy.

Quảng Nam - Đà Nẵng: Tam Hải (20/1 âm lịch), Thanh Khê (6/1 âm lịch), Mân Thái, Thọ Quang (26/1 âm lịch), Tân Chánh (16/2 âm lịch), An Vĩnh (20/2 âm lịch), An Bàng (15/1 âm lịch), Cẩm Thanh (10/2 âm lịch) [7, tr.46].

Quảng Ngãi: Bình Thạnh (18/1 và 15/8 âm lịch), Bình Thuận (15/2 và 15/8 âm lịch), Bình Dương (8/1 và 15/7 âm lịch), Nghĩa An (16/1 âm lịch), Phổ Thạnh (3/1 âm lịch).

Bình Định: Nhơn Hải (12/2 âm lịch), Đề Gi (10/4 âm lịch), Tiên Châu (15/12 âm lịch), lăng Ông ở số 72 Nguyễn Huệ, Quy Nhơn (5/2 âm lịch).

Khánh Hoà: Trí Nguyên (12/5 âm lịch), Khánh Cam (6/4 âm lịch), Cam Linh (16/7 âm lịch), Bá Hà 1 (16/2 âm lịch), Xương Huân (23/6 âm lịch), Cù Lao (16/6 âm lịch), Trường Tây (16-17/7 âm lịch), Vĩnh Trường (11- 2 âm lịch).

Bình Thuận: Thuỷ Tú (20/6 âm lịch), Bình Thạnh (16/6 âm lịch), Hưng Long (15-17 âm lịch), Hiệp Hưng, Bình Hưng (15-17/2 âm lịch), Liên Hương, Tả Tân (15-17/6 âm lịch).

Nhìn chung, ngày tháng cúng tuỳ thuộc vào ngày Ông “lụy”, ngày vua ban sắc phong hoặc theo phong tục, công việc làm ăn mà định ngày cúng, song hầu hết lễ cúng cầu ngư tập trung vào hai mùa xuân và mùa thu. Mùa xuân rộ nhất là cuối tháng giêng, đầu tháng hai âm lịch. Mùa thu rộ nhất là mùng 10/8 âm lịch, thời điểm kết thúc vụ cá. Lễ tế cá Ông thường kết hợp với lễ cầu ngư, lễ xuống thuyền hằng năm, mang tính chất tạ ơn thần thánh và cầu mong mùa màng bội thu tốt đẹp. Lễ hội được tổ chức trong ba ngày đêm liền, có nơi kéo dài đến năm hoặc bảy ngày đêm.

2.2. Đối tượng thờ tự

Trong tín ngưỡng thờ cá Ông, Nam Trung Bộ là địa bàn có nhiều sắc phong hơn so với Nam Bộ và được bảo quản ở tình trạng tốt. Cá Ông thường được phong với các thần hiệu như: “Đông Hải cự tộc ngọc lân tôn thần”, “Nam Hải Đại Nam tướng quân”...

Lăng Ông ở làng Hưng Lương (xã Nhơn Lý, Tp. Quy Nhơn) hiện còn 6 sắc phong của vua Minh Mạng (1826), vua Thiệu Trị (1843, 1844), vua Tự Đức (1850), vua Đồng Khánh (1892) và vua Khải Định (1924) [19, tr.34].

Đình Trường Tây (Nha Trang, Khánh Hoà) có 9 sắc thần, trong đó có sáu sắc phong cho cá Ông vào các năm: Thiệu Trị thứ 3 (1843), Thiệu Trị thứ 7 (1847), Tự Đức thứ 3 (1850), Tự Đức thứ 33 (1880), Đồng Khánh thứ 2 (1887), Duy Tân thứ 3 (1909). Các lăng Ông khác ở Khánh Hoà cũng thuộc loại có nhiều sắc phong trên địa bàn Nam Trung Bộ: Cù Lao (phường Vĩnh Thọ, Tp. Nha Trang, một sắc đời Khải Định thứ 5 - 1920), Xương Huân (Tp. Nha Trang, năm sắc), Cửa Bé (phường Vĩnh Trường, Tp. Nha Trang, bốn sắc), Bá Hà 1 (xã Ninh Thuỷ, huyện Ninh Hoà, bốn sắc), Lương Hải (xã Vạn Lương, huyện Vạn Ninh, một sắc).…

Dinh vạn Thuỷ Tú (phường Đức Thắng, Tp. Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận) có 24 sắc phong, chỉ riêng đời vua Thiệu Trị (1841 - 1847) đã có đến 10 sắc phong; vạn Tả Tân (huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận) có 16 sắc, lâu nhất là sắc phong đời Minh Mạng thứ 5 (1824); vạn Nam Nghĩa có sắc phong đời vua Thành Thái (1900); vạn Long Hải, Liên Hương có sắc phong đời vua Khải Định; vạn Bình Thạnh, Phước Lộc (Lagi) có nhiều sắc phong đời các vua Nguyễn bị đốt huỷ lúc tiêu thổ kháng chiến sau năm 1945 [24, tr.43-44].

Sắc thần lăng Ông thôn Đông Hải:

Sắc Khánh Hoà tỉnh, Ninh Hoà phủ, Đông Hải thôn, phụng sự Đông Nam Sát Hải Lang Thát Nhị Đại tướng quân chi thần. Hộ quốc tí dân nẫm trứ linh ứng. Kim phi thừa cảnh mệnh niễm thần hưu, trứ phong vi Trừng Trạm Dực Bảo Trung Hưng Hạ đẳng thần. Chuẩn kì phụng sự thứ cơ thần kì tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai!

Khải Định nhị niên tam nguyệt thập bát nhật.

ấn Sắc mệnh chi bảo”.

Dịch nghĩa:

Sắc cho thôn Đông Hải, phủ Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà nơi đang thờ vị thần Đông Nam Sát Hải Lang Thát Nhị Đại tướng quân, từ lâu đã giúp nước che dân nghe rất linh ứng. Trẫm thừa mạng lớn, xét đức mỏng nên luôn nghĩ đến sự linh thiêng của thần, nay đặc phong Trừng Trạm Dực Bảo Trung Hưng Hạ đẳng thần. Các người hãy theo đó mà phụng sự cho long trọng. Thần hãy giúp trẫm che chở dân đen. Kính thay!

Ngày 18 tháng 3 năm Khải Định thứ 2 (1917) [3, tr.9]

(Phạm Hoàng Quân phiên âm và dịch nghĩa).

Trong các lăng Ông, thường ở chánh điện có bàn thờ ông Nam Hải, chỉ có một chữ “Thần” viết bằng chữ Hán hoặc chữ “Phước”, “Mặc tướng” và ngọc cốt trong quách. Bàn thờ không có tượng, ngai. Phía trên bàn thờ là bức đại tự lớn “Nam Hải chư thần”. Hai gian bên thờ Tả ban liệt vị và Hữu ban liệt vị với đầy đủ các đồ thờ cúng.

Trong số bảy bản văn tế bằng Hán Nôm trên địa bàn thị xã Hội An (Quảng Nam) thấy có cả một tập thể thuỷ thần, trong đó Nam Hải cự tộc ngọc lân (cá voi) ở vị trí thứ 8 trong số 60 đối tượng được thỉnh nhắc trong bài văn [20, tr.146].

Các lăng Ông ở Khánh Hoà trên chánh điện có bài vị thường ghi “Nam Hải cự tộc ngọc lân Đại tướng quân”. Trong các bản văn tế, ngoài “vị thần chủ” là Nam Hải, còn có cả các đối tượng khác trong hệ thống thần linh biển cũng được tỉnh nhắc đến như: Lý Ngư, Lý Lực, Hà Bá, ông Sứa, Rái Cá, ông Nược (cá heo), bà Tím (rùa biển), Mộc Trụ thần xà (rắn biển), bà Lạch, ông Hèo, cô Hồng (rắn biển). Đặc biệt, do đây là vùng đất chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của sự giao lưu văn hoá Việt - Chăm, nên hầu hết các lăng Ông đều có ban thờ Thiên Y Ana với niềm kính tín rất sâu sắc của cộng đồng ngư dân.

Vạn Thuỷ Tú (Tp. Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận) thờ các vị thần là Nam Hải cự tộc ngọc lân tôn thần, Thuỷ Long thánh phi nương nương tôn thần Thái hiệu tiên sư tôn thần. Phía sau chánh điện là nhà Tiền vãng thờ các bậc Tiền hiền, Hậu hiền, những người có công dựng làng, lập vạn. Trên địa bàn huyện đảo Phú Quý (thuộc tỉnh Bình Thuận), bên cạnh các bài văn tế nói đến các vị thần linh như thầy Nại, công chúa Bàn Tranh, bà chúa Ngọc hay thần phò trợ cho nghề nghiệp như bà Tằm, trong dân gian hiện còn lưu giữ khá nhiều văn tế bằng chữ Hán như: Nam Hải văn, Nam Hải bổn mạn kí văn, Thừa ân Nam Hải văn, Cáo cựu thần Nam Hải nhập liệm tân vị văn... [26, tr.860]

2.3. Lễ hội cúng cá Ông

Cũng giống như ở Nam Bộ, lễ cúng cá Ông ở các tỉnh Nam Trung Bộ về cơ bản là lễ cúng đình hằng năm.

Diễn trình tế lễ thần Nam Hải ở Quảng Nam - Đà Nẵng gồm năm phần với các lễ: lễ vọng (lễ cáo giỗ hay lễ tiên thường, có ý nghĩa báo cáo về việc cúng giỗ, tế), lễ nghinh Ông Sanh (nghinh Ông), lễ tế cô hồn, lễ chánh tế, lễ xây chầu bả trạo và hát hội [7, tr.37-38].

Các bước trong lễ hội cầu ngư ở Khánh Hoà là: lễ rước sắc, lễ nghinh thuỷ triều, lễ tế sanh, lễ chánh tế và hát thứ lễ.

Nghi thức cúng cá voi ở Bình Thuận bao gồm:

Chiều ngày thứ nhất: rước Ông Sanh, ngư dân đưa kiệu ra sông hoặc cửa biển, đọc văn tế, hát chèo bả trạo đưa Ông để rước Ông và các thuỷ thần về dinh lăng vạn an vị.

Sáng sớm ngày thứ hai: làm lễ cúng cáo yết và mổ heo, cắt phần lưng, bụng để nấu các món cúng lễ, phần còn lại để sống đưa lên bàn thờ chính điện để tế. Sau đó làm lễ dâng trầu, dâng rượu, đọc sắc phong, bài tế, hát múa bả trạo hầu Ông.

Buổi trưa đến chiều tối thường tổ chức cúng lễ khai diên, tổ chức múa hát bả trạo, hát tuồng tại nhà võ ca [27, tr.342-343].

Quy mô tổ chức lễ hội tuỳ thuộc vào tình hình thu nhập của từng địa phương, vì mọi chi phí đều dựa vào sự đóng góp tự nguyện trong vạn ghe. Năm nào biển được mùa, không xảy ra chìm ghe, chết người, hư mất phương tiện đánh bắt thì việc cúng kiến được tổ chức to hơn, các hoạt động vui chơi sôi nổi và phong phú hơn, hát bội kéo dài ngày hơn. Trâu bò, heo gà được giết thịt, ăn uống linh đình trong dịp cúng tế này.

2.4. Đám tang cá Ông

Cư dân ven biển từ Thanh Hoá vào đến phía Nam đều có tục thờ cá Ông. Do vậy, khi gặp cá Ông "luỵ" hay “lị”, ngư dân thường tổ chức mai táng rất chu đáo. Thông thường cá voi chết do bị cá ép, bị bệnh già, môi trường ô nhiễm, đôi khi cũng do vô ý vướng vào lưới đánh cá. Trường hợp cá bị sóng lớn đánh dạt vào bờ nhưng chưa chết, ngư dân sẽ tìm mọi cách đưa cá xuống nước, trở ra biển. Người đầu tiên thấy xác cá Ông được xem là trưởng tang, coi như con ông Nam Hải. Người đó phải đội dây rơm mũ bạc như để tang cha mẹ mình. Dân làng tổ chức đám tang và xem anh ta như một vị cao niên được trọng vọng trong làng. Nếu người đó là phụ nữ thì bị bãi miễn và trưởng tang phải là một người con trai trong gia đình. Người này ở địa phương nào thì được phép cung nghinh xác Ông về cấp táng ở lăng của địa phương đó và thường xuyên canh gác bên cạnh xác cá voi cho đến khi hoàn tất công việc ma chay.

Trong bài khảo cứu Tín ngưỡng và ngạn ngữ dân gian vùng thung lũng Nguồn Sơn, tỉnh Quảng Bình (1901), Cadière mô tả: “Khi chôn cất, cá phải được phủ liệm trọn vẹn bằng vải hoặc lụa. Người đầu tiên thấy cá được mang tước là trưởng nam và thi hành phận sự ấy... Trưởng nam của cá voi cũng thi hành phận sự y như một trưởng nam trong gia đình với người quá cố. Ông ta bận áo chế đại tang, đội mũ rơm, áo rộng, xổ lai, gấu áo bẻ ra ngoài, một tấm vải nhỏ kết đằng sau, nghĩa là anh ta được xem như là người thân thuộc gần nhất của bậc linh thiêng vừa tạ thế. Chính anh ta là người sẽ cử hành mọi tang lễ và nhận nhiều ân lành nhất của cá voi” [6, tr.298].

Tuỳ theo ông Lớn hay ông Cậu, việc chôn cất cá voi có khác nhau. Theo ngư dân thì cá voi lớn gọi là cá Ông, nhỏ hơn thì gọi là cá Cô và cá Cậu. Ngoài ra, tuỳ theo địa phương và đặc điểm hình dáng, địa bàn hoạt động mà cá voi có nhiều tên gọi khác nhau: ông Khơi, ông Lộng, ông Chuông, ông Kìm, ông Xưa, ông Đựng, ông Hoa, ông Ngư, ông Thông, ông Máng, ông Thoi, ông Mun, ông Đăng, ông Hổ... Khi chôn cất ông Lớn, người ta xây bọc ván xung quanh, phía trên đổ cát trắng, nơi nào có điều kiện thì xây mộ tập thể bằng xi măng. Với ông Cậu thì an táng nơi mộ phần. Các lăng Ông đều có các khu nghĩa trang dành để mai táng cá Ông như Tam Hải (huyện Núi Thành, Quảng Nam) có đến trên 300 mộ cá voi (lớn nhất nước), lăng Ông ở xã Xuân Hải (huyện Núi Thành, Quảng Nam) khu mộ có 60 - 70 hài cốt cá ông trên diện tích 1.000m2. Trên đảo Hòn Tranh (huyện Phú Quý, tỉnh Bình Thuận) có một ngôi mộ chôn đến 72 con cá voi chết tập thể vào năm 1925. ở Đầm Môn (huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà) có trường hợp 11 con cá voi lụy cùng một lúc. Những nơi phát hiện được cá Ông chết dạt vào bờ mà quá lớn thì phải dùng đăng quây lại dưới bến cho thịt ruỗng mục ra. Ngư dân miền Trung quan niệm rằng nếu vùng biển nào có cá Ông chết tấp vào nhiều thì sẽ được mùa đánh bắt trong nhiều năm liền.

Trong lễ chôn cất cá Ông, có một điều giống nhau giữa các địa phương là người đầu tiên thấy cá Ông luỵ, trong đám tang phải ăn mặc như trưởng nam. Cụ thể là nón rơm sổ tưa, áo quần màu trắng, ống rộng, không vắt sổ, đường may lộn trái và một mảnh nhỏ gắn sau lưng và đi giật lùi trước linh cữu trong đám tang. ở Khánh Hoà, tang phục thường may bằng vải đỏ. Toàn thể ngư phủ trong làng có bổn phận tập trung đông đủ để cử hành lễ mai táng cho trọng thể. Trước đây thời gian hành lễ có thể từ ba đến 10 ngày tuỳ theo khu vực. Ngày nay lễ diễn ra trong ba ngày ba đêm, chi phí rất tốn kém.

Đúng ba năm, thịt cá voi rữa hết, người ta tiến hành lễ quật mộ, hài cốt đem vào lăng thờ, gọi là “thượng ngọc cốt”. Ngọc cốt được rửa bằng rượu trắng và phơi khô, do một ngư dân cao tuổi phụ trách và được cho vào các thùng, quách, khạp, niêm phong cẩn thận, đưa vào lăng thờ. Theo ngư dân, khi không trúng mùa cá, họ đến đây làm lễ rước ngọc cốt, đổ rượu trắng vào ngọc cốt, hứng lấy và đem rưới vào dàn lưới, cầu mong cho đánh bắt được nhiều cá tôm. Lăng Thuỷ Tú chứa hơn 100 bộ xương cá voi, trong đó có hàng chục bộ xương gần 200 năm tuổi. Lăng An Thạnh (xã Tam Thanh, huyện Phú Quý, tỉnh Bình Thuận) hiện còn giữ trên 70 bộ xương cá voi, trong đó có bộ dài đến 25m (từ năm 1960) với trọng lượng cá voi trên 40 tấn, bộ xưa nhất là năm 1841 [13].

Ngoài việc chôn cất, người được coi là con ông Nam Hải phải chịu tang trong ba năm. Tang phục thay đổi tuỳ nơi, nhưng đều phải bịt khăn điều màu đỏ. Trong khi thọ tang, cử hành theo nghi lễ cổ truyền, hoàn toàn dựa vào Thọ Mai gia lễ nhưng rút ngắn hơn so với lễ tang người. Cũng theo ngư dân, trong thời gian chịu tang này, người trưởng nam luôn mạnh khoẻ, nhưng về đường tài lợi chỉ ở mức trung bình. Mãn tang, người này sẽ làm ăn thịnh vượng và gặp nhiều may mắn.

2.5. Kiến trúc lăng Ông

Tín ngưỡng thờ cúng cá Ông gắn với một loại hình kiến trúc mà cư dân ven biển thường gọi là lăng. Tuỳ theo quy mô lớn nhỏ, ở mỗi địa phương có những tên gọi khác nhau: lăng, vạn, dinh, lạch, đình, điện, đền, miếu. Hầu như các làng ven biển làm nghề cá đều có lăng miếu thờ cúng thuỷ thần mà tiêu biểu nhất là cá Ông với thần hiệu “Nam Hải cự tộc ngọc lân tôn thần”. Một số địa phương cũng gọi ông Nam Hải với những tên khác như Đông Hải đại vương, Nam Hải thuỷ thần... Lăng Cô thôn Từ Thiện (Ninh Thuận) thờ bà Nam Hải đại vương (cá voi cái). Tương tự, các lăng thờ cá voi cái ở Cam Linh (thị xã Cam Ranh, Khánh Hoà - năm 1945, một con cá voi cái dài 4m bị lính Nhật bắn chết, trôi dạt vào bờ và được dân địa phương đưa vào lăng thờ cúng) và một số làng chài ở Ninh Thuận, từ Vĩnh Hi vào đến Cà Ná như ở Ninh Chữ, Sơn Hải, Cà Ná cũng gọi các lăng thờ cá cái là lăng Cô.

Ở Nam Trung Bộ, các lăng Ông phân bố dày đặc ở các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Bình Thuận. Quảng Nam - Đà Nẵng có 20 lăng, phường Mân Thái (quận Sơn Trà, Tp. Đà Nẵng) có tới hai lăng. Chỉ riêng xã Hoà Tâm (huyện Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên) có đến ba lăng thờ cá Ông. Tỉnh Khánh Hoà có 50 lăng dọc theo các huyện thị ven biển: Vạn Ninh (13 lăng), Ninh Hoà (15 lăng), Tp. Nha Trang (11 lăng), thị xã Cam Ranh (11 lăng), trong đó có 12 lăng phân bố trên các đảo. Mỗi xã phường ven biển trong tỉnh thường có một lăng, có nơi có đến hai, ba, bốn lăng (nhiều thôn trong một xã), thậm chí phường Vĩnh Nguyên (Tp. Nha Trang) có đến sáu lăng. Thôn Sơn Hải (xã Phước Dinh, huyện Ninh Phước, Ninh Thuận) có hai điểm thờ. Bình Thuận có 26 lăng, dinh, vạn thờ cá voi, chỉ riêng huyện đảo Phú Quý đã có đến 9 lăng thờ thần Nam Hải.

Về niên đại, đa số các lăng Ông ở Nam Trung Bộ có niên đại lâu hơn các lăng Ông ở Nam Bộ, cá biệt có những lăng được thành lập rất lâu như: Thuỷ Tú (1762), được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia tháng 1-1996; lăng An Thạnh (xã Tam Hải, huyện Phú Quý, tỉnh Bình Thuận) xây dựng năm 1781; lăng Ông thôn Hưng Long (xã Nhơn Lý, Tp. Quy Nhơn) xây vào đầu thế kỉ XIX dưới thời vua Gia Long, trùng tu năm 1992; lăng Thạch Long (Tp. Phan Thiết) xây năm 1795.

Kiến trúc của lăng Ông cơ bản mang dáng dấp một ngôi đình, vừa mang chức năng tín ngưỡng vừa mang chức năng thế tục. Lăng thường được xây gần sông, biển và quay ra hướng đông. Lăng thường được chia làm ba phần. Phần trước là võ ca, coi như sân khấu, dùng làm nơi hát tuồng, chèo đưa Ông, hò bả trạo... trong các kì hội lễ. Phần giữa là chánh điện, thờ ngọc cốt cá ông (xương cá voi), các bài vị thuỷ thần, Tiền hiền, Hậu hiền. Phần nhà sau (có những trường hợp xây ra hai bên), dùng để hội họp, tiếp khách và là nơi phục dịch. Trước sân có bình phong chạm trổ long, li, quy, phụng.

Các lăng thờ cá Ông ở Khánh Hoà thường nằm trong các vạn chài, ở địa thế cao, thoáng, mặt hướng ra biển. Duy chỉ có lăng Ông phường Xương Huân (Tp. Nha Trang) nằm sâu trong nội ô (số 4 Lê Lợi) nhưng vẫn được ngư dân thờ cúng chu đáo (khuôn viên của lăng hiện nay đã bị thu hẹp do quá trình đô thị hoá). Một số điểm thờ cá Ông nằm chung trong đình làng như: Trường Tây, Trí Nguyên, Trường Đông (Tp. Nha Trang), Bá Hà 1, Đông Hà (huyện Ninh Hoà). Lăng Ông Cù Lao (phường Vĩnh Thọ, Tp. Nha Trang) nằm trong cụm cơ sở tín ngưỡng dân gian gồm đình làng - ngôi tiền hiền - chùa làng - lăng Ông.

Lăng Ông Thuỷ Tú được xây dựng trên khuôn viên rộng 1.963m2 với diện tích xây dựng 530m2, kiến trúc hài hoà, cân đối theo dạng chữ tam, gồm chánh điện, tiền vãng và võ ca. Ban đầu, lăng chỉ là một ngôi nhà gỗ, lợp lá. Năm 1882, lăng được xây bằng gạch, lợp ngói âm dương. Năm 1849, người ta xây tiếp võ ca và năm 1916 xây cổng tam quan. Nơi đây hiện đang lưu giữ bộ xương cá voi lớn nhất Đông Nam á và trở thành điểm tham quan văn hoá.

2.6. Các sinh hoạt văn hoá dân gian

Hát bả trạo còn gọi là hò đưa linh, chèo cầu ngư, hát bạn chèo đưa Ông là loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian mang tính nghi lễ, gắn với tục thờ cá voi của cư dân ven biển từ Quảng Bình đến Bà Rịa - Vũng Tàu: “Các bản chèo - ít ra từ vùng nam Hải Vân đến sát Bà Rịa - đều có những văn bản giống nhau trên đại thể, để diễn xướng trong các lễ

Nguồn: http://info24h.net/?m=news&a=page_newsdetail&newsid=849&leveltwo=53&lang=vi