Chủ Nhật, 15 tháng 2, 2009

Lễ hội và quản lý văn hóa

TỪ LỄ HỘI BỎ MA ĐẾN LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA TỘC NGƯỜI RAGLAI Ở KHÁNH HÒA DƯỚI GÓC ĐỘ QUẢN LÝ VĂN HOÁ
Trần Kiêm Hoàng



Người Raglai ở Việt Nam thuộc nhóm ngôn ngữ Mã Lai- Đa Đảo (Chăm, Churu, Ê Đê, Raglai, Jarai), theo thống kê của Tổng cục Thống kê Việt Nam, tổng dân số người Raglai ở Việt Nam đến ngày 01 tháng 7 năm 2003 là 108.500, xếp thứ 24/54 dân tộc cả nước, chiếm khoảng 0,135%. Người Raglai hiện nay cư trú gần như khắp các tỉnh, thành phố trên địa bàn cả nước. Ở Khánh Hòa, người Raglai sống tập trung tại hai huyện miền núi Khánh Sơn, Khánh Vĩnh, ở các xã Sơn Tân, Cam Phước Tây huyện Cam Lâm, xã Cam Thịnh Tây, thôn Giải Phóng xã Cam Phước Đông thị xã Cam Ranh và rãi rác ở xã Cam Thành Nam, phường Cam Phúc Nam thị xã Cam Ranh, huyện Diên Khánh, Ninh Hòa.

Từ lễ hội Vidhi atơu…

Trong quá trình sinh tồn và phát triển, người Raglai đã sáng tạo kho tàng văn hóa dân gian mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc của họ mà tiêu biểu là kho tàng ngữ văn, kiến trúc nhà ở, nhà mồ… đời sống lễ hội phong phú. Trong các lễ hội của người Raglai hiện nay còn tồn tại và lưu giữ gần như nguyên vẹn bản sắc của mình: Lễ hội Vidhi atơu. Trong một số tài liệu đã công bố, định danh cho lễ hội này là “bỏ mả”. Theo chúng tôi, điều này không sai, nhưng theo ngôn ngữ của người Raglai Vidhi có nghĩa là dứt bỏ, cắt đứt; Atơu: ma. Như vậy, người Raglai đã định danh cho lễ hội của họ là lễ hội bỏ ma chứ không phải là bỏ mả.
Người Raglai quan niệm khi con người chết đi, hồn vía của họ sẽ thất lạc, bơ vơ. Vì vậy họ có tục gọi hồn người chết nhập vào một vật nào đó trước khi làm lễ mãn tang. Thời gian của Lễ bỏ ma tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế của từng gia đình. Có thể là 1,2 năm, thậm chí nhiều năm sau, khi người thân của người chết có đủ “năng lực” sắm sửa các lễ vật. Để lễ bỏ ma Vidhi atơu tổ chức đầy đủ, trọn vẹn theo đúng phong tục, gia đình người chết phải mời mọi người trong palơi, mọi người trong họ hàng với nhiều gà, heo, rượu thậm chí cả trâu, bò.

Người Raglai tìm thanh đá kêu (patơu lit) để giữ hồn người chết, là cây vật thần gọi là Gai tuah. Cây vật thần cũng có thể làm bằng cây rựa, cây chà gạt (gơr tagac atơu). Cây rựa hay cây chà gạt khi làm vật giữ hồn người chết để phục vụ cho lễ bỏ ma đều có vai trò như một Gai tuah. Gai tuah dùng để múa ma (Tumuya atơu), đưa hồn người chết từ nhà ra mồ, giữ hồn người chết trước khi làm lễ bỏ ma. Nếu không có Gai tuah vong linh người chết sẽ không nhập về cõi âm, phải chịu kiếp khổ ải, bơ vơ không về được thế giới ông bà. Từ quan niệm tín ngưỡng này người Raglai không đặt nặng vấn đề thời gian. tất nhiên ở lễ tang của người Raglai có thể mỗi địa phương mỗi khác một ít, nhưng ở lễ bỏ ma đều giống nhau.

Sau lễ bỏ ma, linh hồn người chết hoàn toàn tách khỏi mọi ràng buộc của người sống, người chết thực sự đi đến “quê hương mới” của mình, còn người sống được “giải phóng” thực sự mọi liên hệ với người chết. Nói cách khác, lúc này người chết chuyển sang trạng thái sống khác, không liên hệ gì với người thân nữa. Do vậy người Raglai không có tục thờ cũng hay làm bàn thờ người chết sau lễ bỏ ma. Đây cũng là dịp tiễn đưa linh hồn người quá cố, buồn vui hòa trộn; song niềm vui được bộc lộ mạnh hơn vì người sống đã làm tròn trách nhiệm của mình đối với người thân qua đời và không lo hồn ma (Atơu) quấy nhiễu, làm hại cuộc sống con người. Dịp lễ là thời điểm thông báo với cộng đồng về sự giải phóng người "góa" trước tục lệ; để các nghệ nhân sáng tạo nghệ thuật đặc sắc, những tượng nhà mồ, nghệ thuật cồng chiêng, múa hát… Nói cách khác, bỏ ma là một trong những lễ hội quan trọng trong đời sống xã hội của người Raglai nói riêng, của các tộc người Tây Nguyên nói chung. Các gia đình Raglai dù giàu hay nghèo, dù lễ vật là trâu bò hay con gà; dù làm nhà mồ to đẹp, nhiều tượng nhà mồ hay chỉ là nhà tranh đơn sơ nhưng họ sẽ thấy thanh thản, tâm hồn được cởi mở vì đã làm tròn bổn phận đối với người quá cố, đối với tổ tiên.

Lễ hội Bỏ ma của người Raglai thường kéo dài từ ba đến năm ngày. Đã có cột đâm trâu thì cũng có cột Bỏ ma, người Raglai gọi đó là cột klao, một hình thức cây-đời hay cây-vũ trụ ; ở một vài tộc người Tây Nguyên khác còn được gọi là cột kút. Nghi thức quan trọng nhất của lễ hội là đám rước hồn người chết đi vòng quanh cột klao và nhà mồ. Già làng khấn vái khai mạc hội lễ, mời thân nhân vào nhà mồ than khóc người chết lần cuối rồi hạ lệnh cho cồng, chiêng, trống nổi lên và đám rước bắt đầu, gồm hàng chục người múa (thường là phụ nữ), người khiêng và đánh trống lớn, người đánh cồng chiêng, người đeo mặt nạ, người trình diễn các con rối. Rước xong, thân nhân người chết và bà con trong palơi tổ chức ăn, uống rượu cần thoải mái, rồi tiếp tục nhảy múa, ca hát quanh nhà mồ suốt đêm.

Nhà mồ của tộc người Raglai tuy không hoành tráng với nhiều tượng nhà mồ như của người Êđê, những cũng là một trong nét văn hoá độc đáo của họ. Nhà mồ không chỉ gắn với lễ hội Bỏ ma, mà còn là một công trình nghệ thuật tổng hợp nhiều truyền thống văn hóa dân gian về kiến trúc, điêu khắc mang đậm tính phồn thực. Đến nhà mồ hay dự lễ hội bỏ ma của người Raglai chúng ta dễ dàng nhận ra ước vọng trước tiên của con người là cầu cho mùa màng tốt tươi, cầu cho sự an lành trong mỗi bài khấn bái, từng điệu múa, điệu mala, chiêng của họ trong ngày lễ và hội.
Đến góc độ quản lý văn hóa…

Bỏ ma là một lễ hôi cổ truyền của tộc người Raglai ở Khánh Hoà, điều đặt ra ở đây chính là trong đời sống các dân tộc ở nước ta hiện nay:
- Những giá trị nào của của lễ hội bỏ ma còn đáp ứng những nhu cầu của xã hội hiện tại?
- Trong việc tổ chức lễ hội hiện nay chúng ta nên nhận thức như thế nào về lễ hội cổ truyền nói chung, lễ hội bỏ ma nói riêng?
Ở đây chúng ta không bàn tới những giá trị nói chung của lễ hội cổ truyền mà chỉ đề cập tới những giá trị cơ bản của lễ hội cổ truyền còn đáp ứng được những nhu cầu của con người trong xã hội hiện nay, một xã hội đang phát triển theo xu hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Bàn đến những giá trị của lễ hội cổ truyền và nhu cầu của xã hội hiện đại, có thể xem xét ở năm giá trị cơ bản , đó là:

- Giá trị cố kết cộng đồng
- Giá trị hướng về nguồn (nguồn gốc tự nhiên và xã hội)
- Giá trị cân bằng đời sống tâm linh
- Giá trị sáng tạo và hưởng thụ văn hoá
- Giá trị bảo tồn, làm giầu và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.

Lễ hội nào cũng là của và thuộc về một cộng đồng người nhất định, đó có thể là cộng đồng làng xã (hội làng), cộng đồng nghề nghiệp (hội nghề), cộng đồng tôn giáo (hội chùa, hội đền, hội nhà thờ), cộng đồng dân tộc (hội Đền Hùng - quốc tế) đến cộng đồng nhỏ hẹp hơn, như gia tộc, dòng họ... chính lễ hội là dịp biểu dương sức mạnh của cộng đồng và là chất kết dính tạo nên sự cố kết cộng đồng.

Mỗi cộng đồng hình thành và tồn tại trên cơ sở của những nền tảng gắn kết, như gắn kết do cùng cư trú trên một lãnh thổ, (cộng cư), gắn kết về sở hữu tài nguyên và lợi ích kinh tế (công hữu), gắn kết bởi số mệnh chịu sự chi phối của một lực lượng siêu nhiên nào đó (cộng mệnh), gắn kết bởi nhu cầu sự đồng cảm trong các hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hoá (cộng cảm)... Lễ hội là môi trường góp phần quan trọng tạo nên niềm cộng mệnh và cộng cảm của sức mạnh cộng đồng.

Ngày nay, trong điều kiện xã hội hiện đại, con người càng ngày càng khẳng định “cái cá nhân”, “cá tính” của mình thì không vì thế cái “cộng đồng” bị phá vỡ, mà nó chỉ biến đổi các sắc thái và phạm vi, con người vẫn phải nương tựa vào cộng đồng, có nhu cầu cố kết cộng đồng. Trong điều kiện như vậy, lễ hội vẫn giữ nguyên giá trị biểu tượng của sức mạnh cộng đồng và tạo nên sự cố kết cộng đồng ấy.

Tất cả mọi lễ hội cổ truyền đều hướng về nguồn. Đó là nguồn cội tự nhiên mà con người vốn từ đó sinh ra và nay vẫn là một bộ phận hữu cơ; nguồn cội cộng đồng, như dân tộc, đất nước, xóm làng, tổ tiên, nguồn cội văn hoá... Hơn thế nữa, hướng về nguồn đã trở thành tâm thức của con người Việt Nam - “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Chính vì thế, lễ hội bao giờ cũng gắn với hành hương - du lịch.

Ngày nay, trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật, tin học hoá, toàn cầu hóa, con người bừng tỉnh về tình trạng tách rời giữa bản thân mình với tự nhiên, môi trường; với lịch sử xa xưa, với truyền thống văn hoá độc đáo đang bị mai một. Chính trong môi trường tự nhiên và xã hội như vậy, hơn bao giờ hết con người càng có nhu cầu hướng về, tìm lại cái nguồn cội tự nhiên của mình, hoà mình vào với môi trường thiên nhiên; trở về, tìm lại và khẳng định cái nguồn gốc cộng đồng và bản sắc văn hoá của mình trong cái chung của văn hoá nhân loại. Chính nền văn hoá truyền thống, trong đó có lễ hội cổ truyền là một biểu tượng, có thể đáp ứng nhu cầu bức xúc ấy. Đó cũng chính là tính nhân bản bền vững và sâu sắc của lễ hội có thể đáp ứng nhu cầu của con người ở mọi thời đại.
Bên cạnh đời sống vật chất, đời sống tinh thần, tư tưởng còn hiện hữu đời sống tâm linh. Đó là đời sống của con người hướng về cái cao cả thiêng liêng - chân thiện mỹ - cái mà con người ngưỡng mộ, ước vọng, tôn thờ, trong đó có niềm tin tôn giáo tín ngưỡng. Như vậy, tôn giáo tín ngưỡng thuộc về đời sống tâm linh, tuy nhiên không phải tất cả đời sống tâm linh là tôn giáo tín ngưỡng. Chính tôn giáo tín ngưỡng, các nghi lễ, lễ hội góp phần làm thoả mãn nhu cầu về đời sống tâm linh của con người, đó là “cuộc đời thứ hai”, đó là trạng thái “thăng hoa” từ đời sống trần tục, hiện hữu.

Xã hội hiện đại với nhịp sống công nghiệp, các hoạt động của con người dường như được “chương trình hoá” theo nhịp hoạt động của máy móc, căng thẳng và đơn điệu, ồn ào, chật chội nhưng vẫn cảm thấy cô đơn. Một đời sống như vậy tuy có đầy đủ về vật chất nhưng vẫn khô cứng về đời sống tinh thần và tâm linh, một đời sống chỉ có dồn nén, “trật tự” mà thiếu sự cởi mở, xô bồ, “tháo khoán”... Tất cả những cái đó hạn chế khả năng hoà đồng của con người, làm thui chột những khả năng sáng tạo văn hoá mang tính đại chúng. Một đời sống như vậy không có “thời điểm mạnh”, “cuộc sống thứ hai”, không có sự “bùng cháy” và “ thăng hoa”.

Trở về với văn hoá dân tộc, lễ hội cổ truyền con người hiện đại dường như được tắm mình trong dòng nước mát đầu nguồn của văn hoá dân tộc, tận hưởng những giây phút thiêng liêng, ngưỡng vọng những biểu tượng siêu việt, cao cả - “chân thiện mỹ”, được sống những giờ phút giao cảm hồ hởi đầy tinh thần cộng đồng, con người có thể phô bày tất cả những gì là tinh tuý, đẹp đẽ nhất của bản thân qua các cuộc thi tài, qua các hình thức trình diễn nghệ thuật, cách thức ăn mặc lộng lẫy, đẹp đẽ khác hẳn ngày thường... Tất cả đó là trạng thái “thăng hoa” từ đời sống hiện thực, vượt lên trên đời sống hiện thực. Nói cách khác, lễ hội đã thuộc về phạm trù cái thiêng liêng của đời sống tâm linh, đối lập và cân băng với cái trần tục của đời sống hiện thực.

Lễ hội là một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng - văn hoá cộng đồng của nhân dân ở nông thôn cũng như ở đô thi. Trong các lễ hội đó, nhân dân tự đứng ra tổ chức, chi phí, sáng tạo và tái hiện các sinh hoạt văn hoá cộng động và hưởng thụ các giá trị văn hoá và tâm linh, do vậy, lễ hội bao giờ cũng thấm đượm tinh thần dân chủ và nhân bản sâu sắc. Đặc biệt trong “thời điểm mạnh” của lễ hội, khi mà tất cả mọi người chan hoà trong không khí thiêng liêng, hứng khởi thì các cách biệt xã hội giữa cá nhân ngày thường dường như được xoá nhoà, con người cùng sáng tạo, và hưởng thụ những giá trị văn hoá của mình.

Điều này có phần nào đối lập với đời sống thường nhật của những xã hội phát triển, khi mà phân công lao động xã hội đã được chuyên môn hoá, nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hoá của con người đã phần nào tách biệt. Đấy là chưa kể trong xã hội một lớp người có đặc quyền có tham vọng “cướp đoạt” các sáng tạo văn hoá cộng đồng để phục vụ cho lợi ích riêng của mình. Đến như nhu cầu giao tiếp với thần linh của con người cũng tập trung vào một lớp người có “khả năng đặc biệt”. Như vậy, con người, đứng từ góc độ quảng đại quần chúng, không còn thực sự là chủ thể của quá trình sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá một cách bình đẳng nữa. Xu hướng đó phần nào xói mòn tinh thần nhân bản của văn hoá, làm tha hoá chính bản thân con người. Do vậy, con người trong xã hội hiện đại, cùng với xu hướng dân chủ hoá về kinh tế, xã hội thì cũng diễn ra quá trình dân chủ hoá về văn hoá. Chính nền văn hoá truyền thống, trong đó có lễ hội cổ truyền là môi trường tiềm ẩn những nhân tố dân chủ trong sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá ấy.

Lễ hội không chỉ là tấm gương phản chiếu nền văn hoá dân tộc, mà còn là môi trường bảo tồn, làm giàu và phát huy nền văn hoá dân tộc ấy.

Cuộc sống của con người Việt Nam không phải lúc nào cũng là ngày hội, mà trong chu kỳ một năm, với bao ngày tháng nhọc nhằn, vất vả, lo âu, để rồi “xuân thu nhị kỳ”, “tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”, cuộc sống nơi thôn quê vốn tĩnh lặng ấy vang dậy tiếng trống chiêng, nở bừng cơ hội, người người tụ hội nơi đình đền, chùa mở hội. Nơi đó, con người hoá thân thành văn hoá, văn hoá làm biến đổi con người, một “bảo tàng sống” về văn hoá dân tộc được hồi sinh, sáng tạo và trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tôi đã nhiều lần tự hỏi, nếu như không có nghi lễ và hội hè thì các làn điệu dân ca như quan họ, hát xoan, hát dậm...; các điệu múa xênh tiền, con đĩ đánh bồng, múa rồng, múa lân...; các hình thức sân khấu chèo, hát bội, rối nước, cải lương...; các trò chơi, trò diễn: Đánh cờ người, chọi gà, chơi đu, đánh vật, bơi trải, đánh phết, trò trám... sẽ ra đời và duy trì như thế nào trong lòng dân tộc suốt hàng nghìn năm qua. Và như vậy thì dân tộc và văn hoá dân tộc sẽ đi đâu, về đâu, sẽ còn mất ra sao?

Đã ai đó từng nói làng xã Việt Nam là cái nôi hình thành, bảo tồn, sản sinh văn hoá truyền thống của dân tộc nhất là trong hoàn cảnh bị xâm lược và đồng hoá. Trong cái làng xã nghèo nàn ấy, ngôi đình mái chùa, cái đền và cùng với nó là lễ hội với “xuân thu nhị kỳ” chính là tâm điểm của cái nôi văn hoá đó. Không có làng xã Việt Nam thì cũng không có văn hoá Việt Nam.
Điều này càng cực kỳ quan trọng trong điều kiện xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá và toàn cầu hoá hiện nay, khi mà sự nghiệp bảo tồn, làm giầu và phát huy văn hoá truyền thống dân tộc trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, thì làng xã và lễ hội Việt Nam lại gánh một phần trách nhiệm là nơi bảo tồn, làm giầu và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc!

Một số vấn đề cần quan tâm trong việc phát huy những giá trị lễ hội cổ truyền trong đời sống xã hội hiện nay:


Như trên đã trình bày, nhiều giá trị của lễ hội cổ truyền còn đáp ứng được những nhu cầu cơ bản của con người xã hội hiện đại. Tuy nhiên, chỉ như thế thôi thì vẫn chưa đủ, mà vấn đề là chúng ta nhận thức những giá trị ấy như thế nào và bằng hành động thực tế phát huy nó ra sao trong đời sống văn hoá hiện nay?

Không thể trình bày ở đây thực trạng của lễ hội cổ truyền hiện nay vì việc đó là quá lớn và đã có người làm. Tuy nhiên, có thể nói một cách tổng quát là trong nhận thức và hành động chúng ta đã đi đúng hướng đó là phục hồi và phát huy lễ hội cổ truyền trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiến bộ và mang đậm bản sắc dân tộc. Nói là đi đúng hướng, nhưng hiệu quả đạt được còn rất hạn chế, nhiều vấn đề lễ hội đặt ra cần phải được nhận thức và tổ chức thực hiện đúng và có hiệu quả hơn.

Để phát huy những giá trị lễ hội cổ truyền trong đời sống xã hội hiện nay, theo tôi, ngoài vấn đề tổ chức và quản lý, thì phải có nhận thức đúng về lễ hội cổ truyền trên một số nét cơ bản.

+ Xét về cội nguồn, lễ hội là một sinh hoạt tín ngưỡng - văn hoá của cộng đồng làng - đó là hội làng. Một số lễ hội nào đó đến nay mở rộng ra phạm vi một vùng hay thậm chí cả nước thì thuở ban đầu cũng chỉ là hội làng mà thôi. Mà mỗi làng lại có số phận, tính cách, truyền thống văn hoá, phong tục, nghi lễ riêng, theo kiểu “trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”, cũng như tính đa dạng, đặc thù, tính địa phương của mỗi lễ hội theo kiểu: “Bơi Đăm, rước Giá, hội Thầy, Vui thì vui vậy chẳng tày rã La”. Có thể nói tính đa dạng là bản chất của lễ hội, do vậy, trong việc phục hồi, phát triển lễ hội hiện nay phải hết sức coi trọng tính đặc thù, độc đáo riêng của mỗi lễ hội, tránh cào bằng, đồng loạt, dẫn đến sự đơn điệu, nhàm chán của sinh hoạt lễ hội. Phải bằng mọi cách khôi phục, giữ lại nét riêng của mỗi lễ hội, gắn với truyền thống văn hoá của mỗi vùng, miền, mỗi làng xã.

+Lễ hội là một sinh hoạt văn hoá cộng đồng hình thành và biến đổi lâu dài, do vậy ở nó tích hợp rất nhiều lớp văn hoá, mà mỗi lớp văn hoá lại gắn với những biểu tượng, mang một ý nghĩa nhất định. Tính đa lớp, đa biểu tượng, đa ý nghĩa của mỗi lễ hội là một di sản quý cần phải trân trọng, gìn giữ. Tính đa lớp, đa nghĩa và đa biểu tượng ấy là do, bản chất và nguồn cội ban đầu của lễ hội ở nước ta là lễ nghi, lễ hội nông nghiệp theo mùa, sau này nó dần dần được lịch sử hoá, xã hội hoá, tôn giáo hoá...; tạo nên “khuôn mặt” đa dạng như lễ hội hiện nay.
Thí dụ như Hội Gióng, cội nguồn có thể chỉ là nghi lễ nông nghiệp mở đầu vụ gieo trồng, mang nhiều ý nghĩa phồn thực mà hiện còn để lại dấu vết. Sau này, trong điều kiện lịch sử nào đó Gióng và hội Gióng trở thành biểu tượng chống ngoại xâm.

+Ngôn ngữ của lễ hội là ngôn ngữ biểu tượng, nó vượt lên trên ý nghĩa cụ thể, nó là sự thăng hoa từ đời sống hiện thực, do vậy cần khắc phục xu hướng hiện nay trong việc phục hồi và phát triển lễ hội là thay thế ngôn ngữ biểu tượng của lễ hội bằng những hình ảnh cụ thể, trần tục hoá cái đã thăng hoa. Thí dụ, cây nêu ngày tết là một biểu tượng, Gióng là một biểu tượng, quả phết trong trò đánh phết là một biểu tượng, lanhga và yoni trong Trò Trám là một biểu tượng, tục bán xuân trong Trò Trám là một biểu tượng...
Để tạo ra lễ hội, cha ông ta xưa đã biểu tượng hoá cái hiện thực, linh thiêng hoá cái trần tục, thì nay cớ gì ta lại làm ngược lại?

+ Lễ hội là thuộc phạm trù đời sống tâm linh, do vậy, mọi cái đều được nghi thức hoá, diễn xướng hoá thành một thứ diễn xướng tâm linh, với các “ngôn ngữ” hết sức phong phú, đa dạng: Diễn xướng nghi lễ (rước, tế lễ), diễn xướng sự tích (hèm, trò diễn...), diễn xướng thi tài, giải trí... Nó không còn là đời sống hiện thực, đời sống trần tục. Do vậy, trần tục hoá lễ hội tức là làm cho lễ hội mất đi bản chất và giá trị vốn có của mình.
+Lễ hội là một hiện tượng văn hoá dân gian tổng thể, tức tính phức thể, đa diện, đa chiều, tính hệ thống. Người ta có xu hướng cấu trúc hoá lễ hội, theo đó lễ hội bao gồm phần lễ và phần hội. Thậm chí có người quy phần lễ thuộc về tín ngưỡng tôn giáo, còn phần hội là sinh hoạt văn hoá, vui chơi giải trí, từ đó có thể cắt bỏ phần này, thêm thắt phần kia. Thực ra, cách nhìn nhận lễ hội như vậy là máy móc, khiên cưỡng không thực tế, dẫn đến không nhận thức đầy đủ về lễ hội. Tính tổng thể của lễ hội không phải là thực thể “chia đôi” giữa lễ hội, mà lễ hội cổ truyền hình thành từ cốt lõi một nghi lễ, tín ngưỡng nào đó rồi sau nảy sinh và tích hợp các hiện tượng sinh hoạt văn hoá, tạo nên tính tổng thể của lễ hội.

Cũng cần khắc phục cách xử lý lễ hội theo “kịch bản”, rồi từ đấy nhồi nhét vào những ý đồ chủ quan của con người nào đó. Nghi lễ, lễ hội cũng như bất kỳ một hình thức diễn xướng dân gian vốn tự phát hình thành “cái khung”, con người dựa vào “cái khung” ấy để thêm bớt sao cho phù hợp. Đó không phải là kịch bản. Nếu sân khấu hoá, kịch bản hoá lễ hội tức là đi ngược lại với bản chất và quy luật hình thành tự nhiên của lễ hội.

KẾT LUẬN

Lễ hội Bỏ ma, một phong tục mang đậm nét của tín ngưỡng của tộc người Raglai nói riêng và của hầu hết các dân tộc vùng Trường Sơn- Tây Nguyên đã chi phối đến những sinh hoạt tư tưởng mang tính cố kết cộng đồng. Việc nghiên cứu kỹ lễ hội này để phân biệt mặt đúng, biện chứng với các mặt duy tâm, dị đoan để gột rửa nó; lựa chọn mặt hay và định hướng dần trong những điều kiện nhất định. Áp đặt hay định kiến dễ dẫn tới sự hiểu nhầm trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc .

Việc thay đổi một tập tục mang tính truyền thống lâu đời không thể giải quyết ngay bằng những biện pháp hành chính mà phải có những chủ trương và biện pháp thích hợp, đồng bộ trên mọi lĩnh vực. Phải coi trọng công tác “cải cách từng bước"những tập quán, hủ tục lạc hậu, giảm dần những chi phí không hợp lý, tốn kém nhiều thời gian , tiền bạc và của cải.

Cả nước nói chung, ở các tỉnh có dân tộc Raglai đang cư trú nói riêng, những năm gần đây mô hình xây dựng làng, khu phố, plơi, ấp văn hoá đã và đang có những bước tiến triển tốt đẹp. Các chuẩn mực của nếp sống văn hoá đang được cụ thể hoá trong các quy ước xây dựng khu phố, làng, palơi, ấp văn hoá. Nhờ khơi dậy những mỹ tục truyền thống, những lễ hội dân gian đặc thù từng địa phương mà đại bộ phận quần chúng đã thấy được những nét đẹp của đạo lý nguồn cội mà tổ tiên để lại. Đặc biệt, những lề thói mang tư tưởng “thủ cựu bài tân” cũng đã được các thế hệ hôm nay dần cải biến. Vấn đề được đặt ra ở đây là chúng ta thấy được những gì tốt đẹp cần phát huy và những hủ tục “thâm căng cố đế” cần loại bỏ qua lễ hội bỏ ma mà ta đang nghiên cứu.

Ta có thể thấy được như sau:
Những giá trị thuần phong mỹ tục:
1.Con người chết đi chỉ còn mang tính giá trị tâm linh, một mặt để giáo dục nền luân lý và đạo đức cho con cháu thì việc cúng kỉnh một vài lễ vật mang tính biểu trưng và những bài khóc tế để kể những điều hay lẻ phải mà người quá cố đã làm khi còn sống là điều có thể chấp nhận và phát huy.

2.Tục cùng nhau chia sẻ những buồn vui, giúp nhau khi người thần gặp cảnh “tang gia bối rối” là đạo lý không chỉ có ở cộng đồng người Raglai mà đã ăn sâu vào nếp ứng xử của các dân tộc khác trong cộng đồng 54 dân tộc cả nước.

3.Việc tổ chức phần hội theo truyền thống trong lễ hội bỏ ma nên gìn giữ và phát huy vì đây chính là một trong những môi trường để diễn xướng, lưu giữ các làn điệu dân ca ,dân vũ, các làn điệu mãla truyền thống. Nơi gìn giữ trang phục cổ truyền của tộc người này đang ngày một biến mất.

*Những tục lệ cần xoá bỏ:

1.Lễ hội, đặc biệt phần hội của người Raglai hiện nay ở Khánh Sơn thời gian tổ chức còn kéo dài, làm ảnh hưởng không nhỏ đến công việc sản xuất và công tác khác. Đã có những trường hợp một số cán bộ người địa phương bỏ cơ quan hơn 1 tuần lễ chỉ vì một lý do bận đi dự lễ hội bỏ ma của người trong palơi (!).

2.Lễ hội càng kéo dài, mức tốn kém sẽ càng nhiều.

3.Việc tổ chức ăn uống kéo dài ngày, công tác bảo quản thức ăn không tốt gây ra những chứng bệnh đường tiêu hoá do thức ăn ôi thiu, mất vệ sinh.

Mặc dù các cấp đã có quy định rất chặt chẽ về quy chế về việc tang, việc cưới và lễ hội , nhưng xem ra việc áp dụng chưa thật sự triệt để và hiệu quả (cụ thể là đối với lễ hội bỏ ma, việc tang của người Raglai ở Khánh Sơn , Khánh Hoà).

Cách tân phù hợp, lưu tâm đúng mức , ứng xử tế nhị đối với người dân tộc thiểu số cả nước nói chung, người Raglai nói riêng trong việc quản lý lễ hội truyền thống là một điều kiện đảm bảo cho tình đoàn kết của đại gia đình các dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Phải chăng chỉ là trách nhiệm của ngành Văn hoá –Thông tin?
T.K.H

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Rất cám ơn bạn đã có ý kiến đóng góp cho chúng tôi.
Quản trị viên.