Thứ Tư, 4 tháng 2, 2009

XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI





Mai Hải Oanh

Theo Mác - Ăng-ghen, "Xét đến cùng mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế - xã hội lúc bấy giờ" (1). Bởi vậy khi phán xét, thẩm định một hiện tượng đạo đức, một giá trị đạo đức, không thể dừng lại ở chỗ lý giải nội dung của nó mà phải đi sâu tìm kiếm nguồn gốc xã hội, đặc điểm, nền tảng kinh tế xã hội, nghĩa là tồn tại xã hội đã sản sinh ra nó.

1. Con đường cơ bản để xây dựng đạo đức

Ở nước ta tuy từ năm 1986 đến nay nền kinh tế đã từng bước đi vào quỹ đạo kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng nhìn tổng thể trên thực tế, có thể nói rằng đó mới là một nền kinh tế thị trường sơ khai. Hệ thống kinh tế xã hội thực sự bị quy luật thị trường và sức mạnh thị trường chi phối chỉ có một bộ phận nhỏ, còn lại là chưa đồng bộ. Trừ hoạt động quản lý kinh doanh của các xí nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn được bao cấp bảo hộ nâng đỡ theo dáng dấp của cơ chế cũ. Các mặt khác của quá trình quản lý như quản lý nhân sự, quản lý sản xuất... chủ yếu là chịu sự khống chế của các quyền lực hành chính chứ không phải là chịu sự khống chế chi phối của quy tắc thị trường.

Trên các lĩnh vực khác, khoa học kỹ thuật, giáo dục đào tạo, y tế, xuất bản, thông tin, các đơn vị sự nghiệp văn hóa đều do quyền lực hành chính chi phối. Thế nhưng cơ cấu này đa phần lại xâm nhập vào cơ chế thị trường chưa đồng bộ nên nhiều trường hợp sa vào tình trạng lộn xộn. Tình trạng đó khiến cho quan hệ kinh tế xã hội trước mắt của nước ta và các quy chuẩn quy tắc hành vi trong hoạt động kinh tế trở nên lộn xộn, trong đó một đặc trưng nổi bật là sự lợi dụng quyền lực hành chính trong lĩnh vực kinh tế để kiếm lời, nhất là quyền lực hành chính dấn sâu vào hoạt động kinh tế hình thành nên cục diện quyền lực hành chính và kinh tế thị trường đan xen nhau, trong cái này có cái kia, quyền lực có thể lợi dụng thị trường, thị trường cũng có thể lợi dụng quyền lực. Quan hệ kinh tế loại này tất nhiên sẽ dẫn đến hai hậu quả:

Thứ nhất quyền tiền trao đổi sẽ làm rối loạn quá trình sự vận hành trong hoạt động kinh tế, làm băng hoại nền đạo đức xã hội.

Thứ hai sự đa dạng hóa quy tắc tùy cơ ứng biến trong hoạt động kinh tế xã hội dẫn tới hàng loạt những hiện tượng tiêu cực trong xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của mọi người. Cố nhiên đời sống kinh tế không phải là nhân tố duy nhất ảnh hưởng đến đạo đức. Tâm lý học về hành vi đã chứng minh sự lựa chọn hành vi đạo đức của con người có động cơ từ bên trong và sự dự báo về kết quả của hành vi. Động cơ đó có liên quan trực tiếp đến nhu cầu và lợi ích kinh tế.

Do đó cho dù chúng ta cho rằng đạo đức có tính độc lập tương đối thì cũng phải thừa nhận rằng đạo đức xã hội rốt cục là dựa vào quan hệ kinh tế hiện thực và hình thức hoạt động kinh tế của con người. Người ta không thể thoát ly môi trường kinh tế thực tại và cuộc sống kinh tế để hình thành một quan niệm đạo đức và phương thức hành vi mà chính là hành vi của con người phải phù hợp với môi trường kinh tế mà người ta sống. Nếu quan niệm đạo đức và hành vi của họ tách rời môi trường kinh tế hiện thực, thì lập tức họ sẽ bị va vấp, lúng túng. Do vậy, nếu trong đời sống đạo đức con người tồn tại một vấn đề gì đó thì vấn đề đó phải truy nguyên ở đời sống kinh tế. Từ đó muốn đặt vấn đề xây dựng đạo đức trước tiên phải xem xét bằng mối quan hệ kinh tế và đời sống kinh tế, nhưng những vấn đề này lại không phải bản thân đạo đức có thể giải quyết được.

Kinh tế với chính trị là mối quan hệ giữa hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc. Sức sản xuất và quan hệ sản xuất đã tạo thành phương thức sản xuất, quyết định hình thức tồn tại của chính trị và pháp luật. Theo lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong phương thức sản xuất thì sức sản xuất là nhân tố phát triển, nó luôn luôn phát sinh và biến hóa, dẫn tới sự chuyển đổi quan hệ sản xuất, sau đó mới có sự biến hóa thượng tầng kiến trúc và pháp luật. Tất nhiên Mác - Ăng-ghen khi nêu ra luận cứ ấy cũng nhấn mạnh đến vai trò của thượng tầng kiến trúc với cơ sở kinh tế, đặc biệt là Ăng-ghen cuối đời rất coi trọng điểm này. M­ác -Ăng-ghen suốt đời cố gắng để làm chính trị, mục đích chính là để thông qua cải cách chính trị thực hiện cải cách quan hệ sản xuất.

Xét từ nghĩa rộng quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế xã hội, tương ứng với trình độ phát triển sức sản xuất nhất định, thay đổi cùng với sự thay đổi về trình độ phát triển sức sản xuất. Song quan hệ kinh tế phải chịu ảnh hưởng của những nhân tố quan trọng nhất trong hệ thống xã hội, tức là những ảnh hưởng của chính trị và pháp luật. Chính trị và pháp luật được loài người tạo ra không phải chỉ để phản ánh cơ sở kinh tế mà nó còn gánh các nhiệm vụ điều chỉnh, cải tạo quan hệ kinh tế - xã hội đẩy sức sản xuất tiến lên. Như vậy chính trị và pháp luật không chỉ là nhân tố có sức mạnh duy trì xã hội và ổn định xã hội mà còn có sức mạnh để phát triển xã hội. Vai trò của chính trị pháp luật là thông qua sức mạnh cưỡng chế của nhà nước để điều tiết quan hệ kinh tế xã hội và điều tiết sự tồn tại các quan hệ khác khiến cho các mặt này có thể phát triển hài hòa và lành mạnh. Ngược lại, nếu chính sách không hợp lý, pháp chế không kiện toàn, quan hệ kinh tế xã hội sẽ ở trong tình trạng rối ren ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của xã hội. Với ý nghĩa này, chúng ta có thể ví chính trị và pháp luật như chiếc van điều tiết quan hệ kinh tế xã hội.

Như trên ta có thể thấy hình thức quan hệ xã hội và thực tế tình hình thay đổi của nó là hai nhân tố chế ước khác nhau. Một là sự thay đổi sức sản xuất mà tự phát dẫn tới sự thay đổi quan hệ kinh tế. Hai là sự thay đổi về phương diện chính trị và pháp luật mà dẫn tới sự thay đổi quan hệ kinh tế. Trong điều kiện trình độ phát triển sức sản xuất nhất định, tình trạng quan hệ kinh tế xã hội và đời sống kinh tế được quyết định bởi nhân tố chính trị và pháp luật. Do đó, với vấn đề đạo đức xã hội và đời sống kinh tế trước mắt cũng như quá trình xây dựng đạo đức lâu dài cần phải tìm nguyên nhân và cách giải quyết từ trong cơ chế chính trị và pháp luật, nhân tố mấu chốt trong đời sống kinh tế và đời sống đạo đức xã hội không thể bỏ qua. Những vấn đề lý luận có liên quan đến xây dựng đạo đức nếu bỏ qua chính trị và pháp luật sẽ khó tránh khỏi tình trạng bàn suông.

Chúng ta đưa vấn đề đạo đức vào vấn đề quan hệ kinh tế, đưa vấn đề quan hệ kinh tế vào các vấn đề chính trị và pháp luật nhưng không có nghĩa là chính trị và pháp luật là nguyên nhân cuối cùng của quan hệ kinh tế xã hội và đạo đức xã hội mà nên thấy rằng trong một xã hội quan hệ kinh tế, đạo đức xã hội và chính trị pháp luật là ảnh hưởng lẫn nhau, hỗ trợ cho nhau. Đạo đức xã hội và chính trị pháp luật không thể thoát khỏi cơ sở kinh tế hiện thực, chúng được xây dựng trên cơ cở kinh tế và chịu sự chế ước của cơ sở này. Song đạo đức xã hội và chính trị pháp luật có khả năng phát triển đa dạng trên cơ sở kinh tế xã hội. Tác dụng của đạo đức đối với xã hội chủ yếu thông qua ba con đường chính trị pháp luật, quy luật xã hội vặng chế ngự hành vi của mỗi cá thể.

Trong nền văn minh hiện đại, nội dung quan trọng nhất của quy phạm đạo đức xã hội phần lớn nằm trong pháp luật, được xã hội thừa nhận và tuân theo. Chúng ta có thể thấy nhà nước, tình trạng hoàn thiện pháp chế và đạo đức xã hội có quan hệ tương hỗ. Pháp chế càng hoàn thiện đạo đức xã hội càng hoàn hảo, pháp chế càng yếu kém tình trạng đạo đức xã hội càng kém. Ngoài phạm vi các quy tắc luật pháp, vai trò khác của đạo đức được phát huy thông qua dư luận. Dư luận xã hội không mạnh mẽ và trực tiếp bằng pháp luật nhưng nó, bằng con đường khiển trách và sự xa lánh của mọi người, có tác dụng khống chế các hành vi cá thể. Song tiền đề để phát huy sức mạnh xã hội của đạo đức là các quy tắc đạo đức phải được đại đa số các thành viên trong xã hội nhận thức và tuân theo.

Trong thực tế, quan hệ và hành vi đạo đức của một người không thể thoát ly môi trường sống của họ, nhất là hoàn cảnh đời sống kinh tế. Nhận thức đạo đức và lương tâm, cố nhiên ở một mức độ nào đó, ảnh hưởng đến hành vi cá thể. Nhưng nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng tới hành vi cá thể là cái giá phải trả sau khi thực hiện hành vi ấy. Nói chung, nhận thức và lương tâm đạo đức cá thể chỉ có được khi nhu cầu lợi ích cá thể nhất trí với những phép tắc của xã hội, những quan niệm đạo đức xã hội. Một khi những lợi ích kinh tế, những quan niệm về đạo đức xã hội hoặc dư luận xã hội không ủng hộ nhận thức và lương tâm đạo đức cá thể thì nhận thức và lương tâm đạo đức ấy sẽ chẳng có vai trò gì với hành vi.

Tóm lại, trong ba cơ sở tác động đến đạo đức thì nguyên tắc đạo đức được quán triệt nhất, có vai trò quan trọng nhất vẫn là pháp luật. Dư luận xã hội xây dựng trên cơ sở hiểu biết chung về đạo đức xã hội, cũng được quyết định bởi trình độ luật pháp. Xét từ ý nghĩa này, có thể thấy, tình hình luật pháp và thực hiện luật pháp của một nước thể hiện rõ bộ mặt đạo đức của nước ấy.

Như vậy, trong một quốc gia, sự hoàn thiện đạo đức, với tư cách là sự phản ánh suy nghĩ về quan hệ xã hội và đời sống xã hội, chủ yếu phải thông qua luật pháp và chính trị mà tác động đến quan hệ kinh tế xã hội và đời sống kinh tế. Chính từ những quan hệ này, chúng ta có thể ví đạo đức như là hệ thống mềm của máy tính. Pháp luật chính trị là hệ thống cứng. Quan hệ kinh tế xã hội là vấn đề cần xử lý.

Điều này chứng tỏ trong hệ thống xã hội quan hệ kinh tế ảnh hưởng trực tiếp và tác dụng tới đạo đức, đồng thời thông qua sự xác nhận của đạo đức mà có tác dụng tới pháp luật và chính trị. Sự tác dụng qua lại giữa đạo đức và quan hệ kinh tế xã hội và đời sống xã hội ảnh hưởng và tác dụng trực tiếp đến pháp luật chính trị và thông qua các thủ đoạn chính trị pháp luật mà điều chỉnh hoặc cải cách quan hệ kinh tế. Sự xây dựng đạo đức, tự bản thân nó, phải thông qua chính trị và pháp luật mà xây dựng trên quan hệ kinh tế, mới có thể thực hiện được.

Con đường cơ bản để xây dựng đạo đức phải xuất phát từ quan hệ kinh tế, đời sống kinh tế, tìm ra những vấn đề tồn tại trong quan hệ kinh tế và đạo đức, rồi cải cách luật pháp và chính trị, xóa bỏ những nhân tố làm rối loạn quan hệ kinh tế, thông qua luật pháp để cải tạo quan hệ kinh tế xã hội, từ đó xây dựng nền đạo đức xã hội kiểu mới. Đây là con đường gian nan, có thể còn dài, nhưng chẳng còn con đường nào khác.

2. Những biến động trong lĩnh vực đạo đức

Sự nghiệp đổi mới toàn diện, triệt để dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đưa nước ta thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội hết sức nặng nề kéo dài nhiều năm. Cuộc thảo luận về khả năng dung hợp kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội đã cơ bản kết thúc với những kết quả to lớn do kinh tế thị trường mang lại, góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước trong những năm qua. Những năm đầu của cuộc đổi mới khi từng bước chuyển sang thực hiện cơ chế thị trường chúng ta thiếu vắng hàng loạt thị trường hoặc mới chỉ có những thị trường đang ở dạng hết sức sơ khai. Chính điều đó làm cho bộ mặt của nền kinh tế, của các quan hệ kinh tế và các quan hệ xã hội, đạo đức bị sai lệch đi nhiều. Trong xã hội đã nảy sinh những biến động nhức nhối về mặt đạo đức, về lối sống, về ý thức. Có nhiều nguyên nhân chủ yếu sau dẫn đến tình trạng trên.

Thứ nhất, nền kinh tế hiện thời đang là nền kinh tế chuyển đổi cho nên việc rất thiếu luật pháp hoặc luật pháp không đồng bộ là điều rất dễ hiểu. Chính do thiếu một hệ thống đồng bộ các đạo luật chặt chẽ và nghiêm ngặt nên tình trạng suy thoái đạo đức có điều kiện nảy sinh và tồn tại. Thiếu vắng thị trường hoặc các yếu tố thị trường không đồng bộ cũng là một cơ hội tốt cho bọn lợi dụng vị thế thuận lợi, lợi dụng chức quyền, lợi dụng thông tin để đầu cơ trục lợi vi phạm đạo đức.

Thứ hai, việc giáo dục đạo đức đã có phần bị coi nhẹ thậm chí lúng túng, thiếu định hướng.

Tất cả những biến động trong lĩnh vực đạo đức ở các mức độ khác nhau đều liên quan tới sự biến động trong nền kinh tế xã hội thời kỳ chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong sự chuyển mình này, quan niệm mới cũ xung đột nhau là điều không tránh khỏi. Muốn khắc phục các yếu tố xấu (cái giá phải trả về đạo đức), nguy cơ và mâu thuẫn của thị trường thì phải tính đến các yếu tố ngoài thị trường, nghĩa là phải phát huy vai trò của Nhà nước, của các đoàn thể xã hội. Nhà nước cần đưa ra những quy phạm luật pháp, khiến cho thị trường có luật pháp hữu hiệu và tương đối hoàn thiện, phát huy tác dụng đầy đủ của thị trường, ngăn chặn điều kiện có thể nảy sinh làm tổn hại đến việc xây dựng đạo đức. Như vậy xây dựng đạo đức không chỉ dừng ở thuyết giáo mà phải là sự hiệp đồng chặt chẽ bằng hành động cụ thể của Nhà nước và toàn thể xã hội.

3. Một số giải pháp cho tình hình đạo đức hiện nay

Việc xây dựng đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay cần có những giải pháp đồng bộ cả về kinh tế, xã hội và văn hóa, giáo dục để tạo ra động lực của sự phát triển. Hiểu rõ những nguyên nhân dẫn đến biến đổi về đạo đức, Đại hội Đảng lần thứ IX của Đảng chỉ rõ phải “thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ” (2). Bên cạnh việc xây dựng đầy đủ các loại thị trường được pháp luật bảo vệ, chúng ta phải nhanh chóng hoàn thiện pháp luật để điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế. Phải tăng cường xây dựng và củng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, những điều căn bản nhất, ở tầng sâu nhất của đạo đức. Niềm tin và lý tưởng phải làm sao phù hợp với trình độ thực tế của phát triển. Vì thế chúng ta phải xây dựng hệ thống chính sách, xây dựng và củng cố hệ thống bảo đảm xã hội, khi hệ thống bảo đảm cũ đã ít tác dụng. Không có hệ thống bảo đảm xã hội vững chắc, mọi người thiếu hẳn cảm giác an toàn, thiếu hẳn niềm tin vào tương lai. Một mặt khác không kém phần quan trọng là, chúng ta phải xây dựng thành công nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc “Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế phải đặc biệt quan tâm gìn giữ và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc tiếp thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới làm giàu đẹp thêm nền văn hóa Việt Nam, đấu tranh chống sự xâm nhập của các loại văn hóa độc hại, những khuynh hướng sùng ngoại lai căng mất gốc, khắc phục tâm lý sùng bái đồng tiền bất chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn"(3). Quan tâm đến việc giáo dục đạo đức, Đảng ta đã tiến hành cuộc vận động chính trị - văn hóa sâu rộng trong toàn Đảng toàn dân, toàn quân, học tập và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, lối sống, tăng cường việc giáo dục tư tưởng đạo đức cán bộ đảng viên, khắc phục nạn tham nhũng, xây dựng đạo đức lối sống lành mạnh trong sạch, xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội.

Nhà nước ta sẽ là Nhà nước của dân, do dân và vì dân chỉ khi mọi suy nghĩ, chủ trương hành động, mọi chính sách tác động đến người dân, xét đến cùng đều phải có ý nghĩa đạo đức. Đối với vấn đề chống tham nhũng, phải thẳng thắn nhìn vào thực tế "sự suy thoái về đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta”(4). Trước nguy cơ của quốc nạn này, Đảng phải xác định thời điểm mốc tiến hành việc công khai tài sản hiện có, xác định mức “thu nhập đặc biệt” của những người đương chức đương quyền trong các lĩnh vực khác nhau; cần nhanh chóng ban hành đạo luật chống tham nhũng.

Công tác tuyên truyền giáo dục và xây dựng dư luận xã hội cần được chú trọng nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục đạo đức trong tình hình mới. Giáo dục đạo đức phải nhằm xây dựng nền đạo đức mới trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp và phát huy được thế mạnh, khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường, nâng cao việc đấu tranh chống lại các hệ tư tưởng đạo đức lối sống phản tiến bộ bên ngoài du nhập vào do mở rộng hội nhập kinh tế. Một trong những nội dung cơ bản của giáo dục đạo đức là làm lành mạnh hóa kinh tế thị trường, kết hợp các giá trị đạo đức truyền thống với các giá trị thời đại, phục vụ cho nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

M.H.O

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Rất cám ơn bạn đã có ý kiến đóng góp cho chúng tôi.
Quản trị viên.